HƯỞNG ỨNG NGÀY SÁCH VÀ VĂN HOÁ ĐỌC VIỆT NAM (21/4/2021 - 21/4/2024)

Nâng cao tính thuyết phục của công tác tư tưởng trước những đòi hỏi mới của sự nghiệp cách mạng ở nước ta

Đăng lúc: 16:24:38 11/11/2014 (GMT+7)1074 lượt xem

Tính thuyết phục của công tác tư tưởng theo cách hiểu chung nhất là dùng lý lẽ, chứng cứ để làm cho người khác tin vào một vấn đề, một chân lý, một mục tiêu mà Đảng đề ra

 PGS.TS Phạm Văn Linh

Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương

 

              Tính thuyết phục không chỉ có vai trò quan trọng đối với công tác tư tưởng mà còn hết sức quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng. Đây là vấn đề cụ thể nhưng liên quan tới tất cả các lĩnh vực của công tác tư tưởng và luôn có yêu cầu khác nhau trong từng giai đoạn khác nhau.

           1. Công tác tư tưởng của Đảng bắt đầu ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với yêu cầu cần thiết phải làm cho đông đảo quần chúng nhân dân hiểu được mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân. Trên cơ sở đó, động viên mọi lực lượng trong xã hội thực hiện các mục tiêu của Đảng, của dân tộc đã lựa chọn. Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, sự nghiệp cách mạng muốn thành công phải bắt đầu từ việc thay đổi nhận thức, làm cho quảng đại quần chúng nhân dân hiểu được mục đích của Đảng, phải vận động, thuyết phục, nội dung, cách làm phải hiệu quả, sắc bén.

            Về nội dung công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản, xét về khía cạnh lý luận, là hoạt động có mục đích của Đảng nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, làm cho hệ tư tưởng đó chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, hình thành thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho quảng đại quần chúng nhân dân, cổ vũ, động viên tính tích cực, sáng tạo, tự giác của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác tư tưởng của Đảng bao gồm công tác lý luận, công tác tuyên truyền và cổ động, trong quá trình triển khai cụ thể, nó được thể hiện trên các hoạt động nghiên cứu và giáo dục lý luận; công tác tuyên truyền; công tác cổ động, giới thiệu và nhân rộng các điển hình tiên tiến; công tác văn hóa, văn nghệ của Đảng; công tác nắm bắt tư tưởng, dư luận xã hội; công tác khoa giáo và công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch...

           Tính thuyết phục không chỉ có vai trò quan trọng đối với công tác tư tưởng mà còn hết sức quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng. Đây là vấn đề cụ thể nhưng liên quan tới tất cả các lĩnh vực của công tác tư tưởng và luôn có yêu cầu khác nhau trong từng giai đoạn khác nhau. Tính thuyết phục của công tác tư tưởng theo cách hiểu chung nhất là dùng lý lẽ, chứng cứ để làm cho người khác tin vào một vấn đề, một chân lý, một mục tiêu mà Đảng đề ra. Trong các yếu tố cấu thành làm nên sức thuyết phục của công tác tư tưởng, cho thấy có mối quan hệ của nội dung và hình thức; mối quan hệ của chủ thể và khách thể và quan hệ giữa nội dung, hình thức với chủ thể tác động tới khách thể. Thông thường, tính thuyết phục trong công tác tư tưởng cũng thể hiện ở đối tượng tiếp nhận với 4 cấp độ: tiếp nhận tích cực; thay đổi nhận thức, biến thành niềm tin; chuyển hóa thành hành động và sẵn sàng bảo vệ. Có nhiều yếu tố tác động tới mức độ thuyết phục của công tác tư tưởng, đó là chất lượng nội dung hay vấn đề định hướng tuyên truyền; lý lẽ, tính logic, tính khoa học; sự tâm huyết, uy tín của chủ thể tuyên truyền; tính chân thực, sự thật của vấn đề.

          Tính thuyết phục mang một ý nghĩa sâu sắc, ở tầm vĩ mô, đó là việc chuyển tải ý thức hệ tư tưởng, cương lĩnh cách mạng, đường lối, chủ trương của Đảng, nhiệm vụ chính trị to lớn mà Nhà nước cùng toàn dân tổ chức thực hiện trong từng giai đoạn đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân; ở sự thông tin, giải thích cho bạn bè quốc tế, ở sự đấu tranh sắc bén chống lại các luận điệu chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch trong và ngoài nước. Trong phạm vi cụ thể, tính thuyết phục được thể hiện trong từng chủ trương, chính sách, từng đối tượng mà công tác này hướng tới. Bởi vậy, xét trên phương diện khoa học, đó còn là tác động của chủ thể, người đi tuyên truyền, đến khách thể, tức là đối tượng được tuyên truyền về những vấn đề cốt yếu của cách mạng trong từng thời kỳ. Qua đó góp phần nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin, thống nhất hành động, phát huy được sức sáng tạo của quần chúng nhân dân, biến các quan điểm, mục tiêu, đường lối của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng.

            Trong công tác tư tưởng, tính thuyết phục có mối quan hệ chặt chẽ và biện chứng với tính chiến đấu, sắc bén, tính hấp dẫn và tính hiệu quả... Nếu như tính thuyết phục đòi hỏi cả về nội dung, phương pháp, công cụ tuyên truyền phải phù hợp đối tượng, làm cho đối tượng "tâm phục, khẩu phục", từ đó chuyển hoá từ niềm tin thành hành động tự giác, còn tính sắc bén vừa là tính thuyết phục, nhưng còn là tính chiến đấu, chú trọng ở những lĩnh vực và đối tượng, đặc biệt là trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Làm tốt tính thuyết phục, tính sắc bén trong công tác tư tưởng cũng có nghĩa là hiệu quả công tác này đã đạt được. Tất nhiên, trên bình diện chung của công tác tư tưởng, tính hiệu quả còn được thể hiện ở tổng thể các hoạt động, các chi phí vô hình và hữu hình và kết quả thu được... Tuy vậy, mỗi khía cạnh này đều có tính độc lập tương đối và đều là yêu cầu hướng tới trong các hoạt động cụ thể của công tác tư tưởng, qua đó cũng nhằm mục đích nâng cao chất lượng, hiệu quả chung đối với công tác tư tưởng của Đảng trong mỗi thời kỳ lịch sử của cách mạng nước ta.

          Công tác tư tưởng bao quát một phạm vi rộng lớn, đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến nhiều vấn đề và thường xuyên bị tác động bởi các nhân tố ảnh hưởng cả bên trong và bên ngoài. Bởi vậy, tính thuyết phục của công tác tư tưởng cũng chịu ảnh hưởng của các nhân tố này. Trước hết là nhân tố bên trong, đó là uy tín, tính nêu gương của lãnh đạo, lòng tin của nhân dân với Đảng, tính đúng đắn của đường lối và năng lực của đội ngũ cán bộ. Yếu tố bên ngoài gồm có những thuận lợi và khó khăn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thành tựu và hình ảnh của một số nước XHCN trong quá trình cải cách, mở cửa và đổi mới; tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, internet; tình hình an ninh, chính trị trong và ngoài nước; mức độ tác động trong sự chống phá của các thế lực cơ hội và thù địch.

        Thực tiễn ở nước ta cho thấy, trong hoạt động của công tác tư tưởng, những cơ hội và thách thức tuy có khác nhau ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng, nhưng lúc nào công tác tư tưởng cũng nổi lên là vị trí quan trọng hàng đầu. Yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị đòi hỏi công tác tư tưởng phải bám sát quá trình tổ chức, triển khai, đi trước, đi cùng và đi sau để đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu đã xác định. Lịch sử cách mạng nước ta cho thấy rõ, khi đất nước chưa được độc lập, mục tiêu của công tác tư tưởng là động viên sức mạnh toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để giành chính quyền; khi Nhà nước công nông non trẻ mới ra đời, công tác tư tưởng lại hướng tới mục tiêu tập trung cao độ cho việc bảo vệ chính quyền, chống thù trong giặc ngoài, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc cho đến khi đất nước hoàn toàn độc lập, non sông thu về một mối; đất nước bước vào giai đoạn đổi mới và phát triển, công tác tư tưởng lại trực tiếp góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những chặng đường đó, một số đóng góp cơ bản cần khẳng định rõ nét, đó là:

        Thứ nhất, đã cung cấp những luận cứ khoa học, cơ sở lý luận và thực tiễn, góp phần hình thành hệ thống các luận điểm mới trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thể hiện sự bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn nước ta.

           Thứ hai, đó là việc giáo dục, tuyên truyền có hiệu quả chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, những thành quả đã đạt được về sự ổn định và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực trong thông tin đối nội và đối ngoại, tiếp tục củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

          Thứ ba, góp phần quan trọng trong việc xây dựng con người mới ở nước ta, xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, đòi hỏi phải chú trọng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.

          Thứ tư, là lực lượng quan trọng trong việc tham mưu xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, giới thiệu với bạn bè quốc tế hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam.

          Thứ năm, trực tiếp tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội về tư tưởng, định hướng tuyên truyền, nắm bắt dư luận xã hội. Tăng cường củng cố khối đoàn kết trong Đảng và sự đồng thuận của toàn xã hội, đồng thời, nâng cao khả năng phát hiện những vấn đề mới, nhạy cảm, phát sinh và khả năng dự báo xu hướng phát triển.

          Thứ sáu, đi đầu trong việc đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù địch của các thế lực cơ hội, phản động chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng...

        Ở những mức độ khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử, kết quả nêu trên đã chứng tỏ tính thuyết phục, tính chiến đấu và hiệu quả của công tác tư tưởng. Tuy nhiên, từ yêu cầu của thực tiễn phát triển đất nước, trên những vấn đề này vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, đó là: công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, dự báo tình hình trong nước và quốc tế vẫn chưa theo kịp với đòi hỏi của cuộc sống; chưa triển khai tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, những quan điểm mơ hồ, sai trái. Công tác giáo dục lý tưởng, văn hoá, khoa giáo chưa sâu rộng và còn nhiều hạn chế. Vấn đề đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc còn bị động, hiệu quả thấp; chưa huy động đầy đủ được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị làm công tác tư tưởng. Nội dung, phương pháp công tác chậm đổi mới, hoạt động chưa đồng đều, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, các bộ phận chưa được giải quyết kịp thời và triệt để một số bức xúc của nhân dân. Rõ ràng rằng, những thiếu sót, yếu kém trên cũng cho thấy tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng trên một số lĩnh vực còn hạn chế.

          Những hạn chế đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, đó là: một số cấp ủy đảng chưa nhận thức đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của công tác tư tưởng, tính nêu gương chưa cao, nhất là trong việc chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; tác động của mặt trái cơ chế thị trường, của quá trình hội nhập đối với mọi mặt của đời sống xã hội ở nước ta diễn biến phức tạp; chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế; sự chống phá quyết liệt, tinh vi của các thế lực cơ hội, thù địch.

          2. Bối cảnh mới của sự nghiệp cách mạng nước ta đặt ra nhiều yêu cầu, đổi mới đối với công tác tư tưởng, đặc biệt trong vấn đề nâng cao tính thuyết phục trong các hoạt động, không chỉ kế thừa, phát huy những thành tựu, kinh nghiệm của quá khứ, mà còn nhạy bén, dự báo và phát hiện những điểm mới, sự khác biệt, những thuận lợi và khó khăn phía trước, đặc biệt khi đất nước ta bước vào giai đoạn mới, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

           Về quốc tế, bên cạnh những thuận lợi được dự báo là xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu hướng lớn của thời đại; toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế vẫn chi phối tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, tạo nên cả thời cơ và thách thức cho mỗi nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, đặc biệt là xung đột sắc tộc, khủng bố, tranh chấp chủ quyền biển, đảo vẫn diễn biến khó lường, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, ly khai, vấn đề dân tộc, tôn giáo, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ vẫn diễn ra ở nhiều nơi.

        Xu thế toàn cầu hoá với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ, ngày càng thu hút sự tham gia của nhiều quốc gia, nhiều tổ chức lớn trên thế giới. Các nước sau khủng hoảng kinh tế, đang trong quá trình phục hồi, nhưng diễn biến còn nhiều phức tạp, khó lường với nhiều mức độ khác nhau. Quá trình cấu trúc lại nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết việc làm, an sinh xã hội, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế luôn là sự quan tâm của nhiều quốc gia, dân tộc. Vấn đề phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai, bệnh dịch và nhiều vấn đề lớn khác... đòi hỏi phải có sự phối hợp tham gia của nhiều quốc gia mà không một nước riêng lẻ nào có thể tự giải quyết.

          Theo dự báo, đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trực tiếp là khu vực Đông Nam Á vẫn là khu vực phát triển năng động, giữ vị trí ngày càng quan trọng trong quan hệ quốc tế. Mặc dù vậy, ở đây vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố không ổn định, đặc biệt là tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, xung đột sắc tộc... đe dọa đến sự ổn định, hoà bình chung của khu vực.

          Ở trong nước, nhiều thuận lợi, khó khăn và thách thức cũng đặt ra đòi hỏi mới cho công tác tuyên giáo, đặc biệt là yêu cầu cao về tính thuyết phục, sắc bén, hiệu quả của công tác này. Đó là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước đã đạt được sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đã tạo ra sức mạnh tổng hợp, thế và lực của đất nước lớn mạnh hơn nhiều so với trước. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng đói nghèo và trở thành quốc gia đang phát triển ở mức trung bình. Vị thế quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng cao trên thế giới... Tuy nhiên, trong những thập niên tới, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức không thể xem thường: chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; phân hoá giàu nghèo có nguy cơ ngày càng gia tăng, trật tự, an toàn xã hội có những biểu hiện đáng lo ngại; tình trạng thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn nghiêm trọng; các thế lực thù địch tăng cường hoạt động "diễn biến hoà bình", thúc đẩy "tự diễn biến" từ bên trong với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp hơn; thiên tai, dịch bệnh, tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu vẫn đang diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ tới sự ổn định và phát triển của đất nước.

          Những khó khăn, thách thức đó đặt ra đối với cả nước, các cấp, các ngành, trong đó trực tiếp là lĩnh vực công tác tư tưởng, đòi hỏi có sự đổi mới, nâng cao tính thuyết phục trong từng nội dung, hình thức hoạt động, trên từng vấn đề lớn, trọng tâm trong nhiệm vụ trong giai đoạn mới:

Trước hết, đó là yêu cầu nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn. Tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH ở nước ta trong giai đoạn mới; khẳng định tính đúng đắn và kiên định đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011; Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, Báo cáo Chính trị trình Đại hội XI của Đảng, các Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị Trung ương 3, 4, 5 (khóa XI) làm cho toàn Đảng, toàn dân thấm nhuần, biến thành hành động cách mạng của quần chúng nhân dân.

        Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính thuyết phục của việc tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đưa việc học tập này đi vào chiều sâu, vào sinh hoạt chi bộ thường xuyên của các tổ chức Đảng. Thực hiện tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua, phong trào xã hội khác, đặc biệt là thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", nhất là các công việc sau kiểm điểm, để ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, lấy cái tích cực đẩy lùi tiêu cực, phản bác kịp thời, sắc bén âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nâng cao sức đề kháng trong toàn xã hội, nhất là thế hệ trẻ.

         Ba là, tiếp tục đưa cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư đi vào chiều sâu; nghiên cứu, bổ sung và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, trong đó đặc biệt coi trọng việc phát triển nền văn học, nghệ thuật mang đậm tính nhân văn; giải quyết tốt các vấn đề xã hội trong mỗi bước phát triển kinh tế; bồi dưỡng các thế hệ con người Việt Nam phát triển toàn diện.

Bốn là, chủ động, tích cực và nâng cao hiệu quả, tính sắc bén công tác tuyên truyền đối ngoại, làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ và ủng hộ sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước, những thành tựu đổi mới trên các lĩnh vực, đặc biệt về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo; những quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có cộng đồng khoảng 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài...

          Năm là, đổi mới, nâng cao hiệu quả, phương thức hoạt động của các binh chủng, lực lượng làm công tác tư tưởng, bám sát nhiệm vụ chính trị, hướng mạnh về cơ sở, tăng cường đối thoại; kiện toàn các cơ quan truyền thông, báo chí, xuất bản hoạt động theo đúng tôn chỉ, mục đích, giới thiệu và nhân rộng các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt.

Sáu là, tập trung sức giải quyết dứt điểm một số vụ việc bức xúc, nổi cộm, nhất là những vụ việc đã tồn đọng, kéo dài. Xử lý nghiêm những tập thể và cá nhân sai phạm, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là những người đứng đầu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống./.

 

Nguồn Tạp chí Tuyên giáo

Số lượt truy cập
Hôm nay:
2124
Hôm qua:
1983
Tuần này:
12437
Tháng này:
44083
Tất cả:
4.408.963