HƯỞNG ỨNG NGÀY SÁCH VÀ VĂN HOÁ ĐỌC VIỆT NAM (21/4/2021 - 21/4/2024)

Nhân tài với phát triển bền vững

Đăng lúc: 16:28:03 11/11/2014 (GMT+7)819 lượt xem

Muốn phát triển và hưng thịnh thì phải có nhiều người tài giỏi, hơn nữa phải sử dụng và trọng đãi họ sao cho xứng đáng.

 GS.TS. Hoàng Chí Bảo

                                                                                    Ths. Nguyễn Cẩm Ngọc

Muốn phát triển và hưng thịnh thì phải có nhiều người tài giỏi, hơn nữa phải sử dụng và trọng đãi họ sao cho xứng đáng.

 1. Nhân tài, chìa khóa của phát triển đất nước và hưng thịnh quốc gia

Đất nước đang đứng trước một đòi hỏi bức xúc là phát triển nhanh và bền vững. Trong 10 năm tới, đến năm 2020, chúng ta phải tạo được nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Muốn vậy phải nhận rõ những điểm nghẽn trong phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và thực hiện chương trình hành động quốc gia nhằm đột phá để phát triển.

Ba đột phá để vượt qua ba điểm nghẽn trong phát triển được xác định rõ trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Đó là: thể chế, hạ tầng kỹ thuật và chất lượng nhân lực.

Cả ba đột phá đó đều cần, cần rất nhiều nhân tài giúp nước, đều liên quan trực tiếp tới nhân tài và chiến lược quốc gia về nhân tài. Đột phá về chất lượng nhân lực càng đòi hỏi phải có nhiều nhân tài, do đó phải dồn nỗ lực và đầu tư cho công cuộc chấn hưng giáo dục, qua đó mà chấn hưng dân tộc.

Sinh thời, Hồ Chí Minh hằng mong muốn dân tộc Việt Nam phải giàu mạnh, phú cường, hơn nữa dân tộc ta nhất định phải trở thành một dân tộc thông thái, xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là một xã hội văn hóa cao. Để khát vọng đó trở thành hiện thực sinh động phải có nhiều nguồn lực, vốn liếng, của cải, phải có rất nhiều người tài đức, tức là nhân tài, hiền tài tham gia vào công cuộc kiến thiết chế độ. Không có nguồn lực, nguồn vốn, của cải, tài sản nào quý hơn, quan trọng hơn là vốn người, nguồn lực con người, tài nguyên con người, “tư bản” người. Nói rộng ra đó là chất lượng con người Việt Nam trong cộng đồng dân tộc, trong các thế hệ nối tiếp nhau. Tinh hoa ưu tú trong lực lượng người đông đảo ấy là những nhân tài ở mọi lĩnh vực hoạt động, mọi nghề nghiệp, mọi cấp độ phát triển xã hội.

Muốn phát triển và hưng thịnh thì phải có nhiều người tài giỏi, hơn nữa phải sử dụng và trọng đãi họ sao cho xứng đáng.

Trong quản lý và điều hành công việc quốc gia, phải coi lãng phí nguồn lực con người là lãng phí lớn nhất. Để mai một nhân tài là gây ra thiệt hại lớn nhất, làm suy yếu chính thể nhanh nhất. Đất nước sẽ đánh mất triển vọng phát triển, xã hội sẽ tự làm hao mòn động lực phát triển nếu để xảy ra tình trạng nhân tài không được sử dụng, không được tôn trọng. Cứ nhìn vào thái độ ứng xử và sự thi hành chính sách đối với dân chúng, đặc biệt là đối với trí thức của những người cầm quyền trong bộ máy công quyền và trong chính giới nói chung mà người ta có thể thấy tính chất và hiện trạng của nhà nước và xã hội sẽ như thế nào.

Nếu văn hóa như tấm căn cước của một dân tộc để dân tộc đó đi vào đời sống thế giới văn minh, nhất là trong hội nhập quốc tế hiện nay, biết tiếp biến văn hóa để phát triển, thì giáo dục, đặc biệt là giáo dục bậc cao lại cho ta hình dung diện mạo tinh thần của một xã hội, biết nó ở thế mạnh hay yếu, lực nhiều hay ít, đang có sức sống, sức bật vươn lên hay đang suy yếu, suy kiệt. Giáo dục - đào tạo là phần cốt lõi, máu thịt của văn hóa. Nó quy tụ ở đào tạo người và dùng người.

Đời xưa, Thân Nhân Trung đã để lại một lời bất hủ, ý tưởng sáng suốt mà triết lý thì sâu sắc, còn mãi với muôn đời. Ông nói: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí mạnh thì thế nước vững. Nguyên khí yếu thì thế nước suy. Bởi vậy chăm lo phát hiện và bồi dưỡng, trọng dụng hiền tài là việc quan tâm hàng đầu của các bậc đế vương”.

Ở thế kỷ thứ XVIII, nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng xác định các nhân tố của phát triển xã hội, đã phát hiện ra những dấu hiệu của sự thịnh suy, trong đó ông đặc biệt chú ý tới kẻ sỹ, trí thức hiền tài. Theo ông, một xã hội bình yên thịnh vượng thì không thể thiếu, không được xem nhẹ Nông - Công - Thương - Trí. Theo đó, “phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt và phi trí bất hưng”. Ông cũng chỉ rõ, triều chính và người cầm quyền không được để quốc gia rơi vào suy thoái, đổ vỡ. Nếu để xảy ra tình trạng “trẻ không kính già, trò không trọng thầy, binh kiêu tướng thoái, tham nhũng tràn lan, sĩ phu ngoảnh mặt” thì xã hội tất sẽ rối loạn, suy đồi, đổ vỡ.

Hiền tài như sự quy tụ, kết tinh những tinh hoa của Dân của Nước. Nó không chỉ tiêu biểu cho trí tuệ, tư tưởng, cho sức sáng tạo mà cũng còn là tiêu biểu cho đạo đức, đạo lý và văn hóa của xã hội. Trữ năng tinh thần, tiềm lực văn hóa, sức sống bền bỉ của một dân tộc biểu hiện qua đội ngũ nhân tài và nguồn phát sinh, phát triển tiềm tàng của nó.

Sức mạnh và vốn quý này là vô giá. Vì vậy, tạo dựng, nuôi dưỡng nhân tài là vấn đề chiến lược, đó thực sự là chiến lược sâu xa của phát triển.

Kế thừa truyền thống, noi gương ông cha mình, Hồ Chí Minh trù tính rằng, vì lợi ích mười năm: trồng cây, vì lợi ích trăm năm: trồng người. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa.

Với Đảng, đặc biệt là khi Đảng đã cầm quyền, phải coi đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng. Trong đội ngũ cán bộ ấy, nhất thiết phải có cán bộ nòng cốt, chủ chốt, bộ phận ưu tú, tinh hoa.

Trong lịch sử chủ nghĩa xã hội hiện thực, ngay từ khi nhà nước Xô Viết mới ra đời, Lênin đã từng nhấn mạnh: Đội tiên phong của giai cấp công nhân, tức là Đảng, một khi đã nắm chính quyền và bắt tay vào xây dựng chế độ mới, phải đặt lên hàng đầu việc đào tạo chuyên gia, phải có đội ngũ chuyên gia thực sự là của mình và bất luận thế nào cũng không được thua kém các chuyên gia tư sản.

Những chỉ dẫn đó vẫn mãi mãi còn tính thời sự.

Ngay sau ngày Độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trong thư gửi cho học sinh nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên dưới chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ, non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có thể sánh vai cùng các cường quốc năm châu hay không, một phần lớn nhờ ở công học tập của các em. Người đã kỳ vọng vào tương lai với một niềm tin mãnh liệt vào sức trẻ, vào các nhân tài trẻ tuổi và Người ký thác niềm tin ấy ở thanh thiếu niên. Người còn gửi thư cho quốc dân đồng bào, nói rõ việc kiến quốc cần có nhân tài, thiết tha mong muốn toàn dân giúp đỡ Chính phủ, thấy ở đâu có người tài đức thì mách bảo, giới thiệu với Chính phủ để Chính phủ trọng dụng. Cái độc đáo và nét đặc sắc trong tư duy và hành động của Hồ Chí Minh là ở chỗ, tầm nhìn chiến lược, nhìn xa trông rộng luôn kết hợp với hành động hết sức kịp thời, thiết thực và cụ thể. Từ rất sớm, Người đã chủ trương phải dựa vào dân, kêu gọi tấm lòng ái quốc và ý thức dân tộc của mọi người dân để dân cùng với Chính phủ chăm lo công tác nhân tài, một trong những công việc hệ trọng, lớn lao nhất của quốc gia. Tìm người tài ở trong số đông dân chúng, trong cả nước, huy động toàn dân phát hiện, nuôi dưỡng, quý trọng và trọng đãi nhân tài để xây dựng quốc gia văn minh, hiện đại, phú cường - đó là nét đặc sắc trong tư tưởng, trong chủ kiến của Hồ Chí Minh.

Cho đến Di chúc, Người vẫn không quên căn dặn Đảng, Chính phủ và toàn dân, đào tạo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết.

Người cũng trực tiếp nêu gương trong việc quan tâm, nuôi dưỡng phát triển nhân tài để nhân tài hết mình vì dân vì nước.

Là một trí thức lớn với tài năng trí tuệ và nhân cách lớn, Người có sức thu hút, thuyết phục và thu phục mọi người dân, mọi nhân tài trí thức. Người còn nêu lên một mẫu mực về phép dùng người, phát hiện và đào tạo nên bao nhiêu nhân tài lỗi lạc cho dân tộc.

Vào lúc này, khi Việt Nam đã đổi mới hơn 25 năm nay, đã mở cửa với thế giới bên ngoài, đã hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, một giai đoạn phát triển bước ngoặt bắt đầu. Đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chúng ta đang phải đổi mới mô hình tăng trưởng và phát triển, tái cấu trúc nền kinh tế, phải ra sức tận dụng thời cơ và vượt qua các thách thức nguy cơ để tiến kịp các nước trong vùng, đạt tới mặt bằng chung của quốc tế, khu vực và thế giới trên con đường phát triển bền vững. Hơn bao giờ hết, Việt Nam cần có nhiều nhân tài ở mọi lĩnh vực. Lại phải đào tạo, bồi dưỡng cho lớp lớp nhân tài kế tiếp nhau, không để hẫng hụt, thiếu hụt trước yêu cầu phát triển của quốc gia - dân tộc và của thế giới - nhân loại trong đà phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và xã hội thông tin. Bởi vậy, nhận thức đúng về nhân tài, có chính sách, cơ chế tạo động lực phát triển và phát huy nhân tài đang là đòi hỏi bức xúc và cần có đột phá.

2. Nhân tài và ứng xử với nhân tài trong xã hội dân chủ, trong nhà nước pháp quyền

Nói tới nhân tài là nói tới những người tài giỏi, những tài năng vượt trội, nổi bật trong số những người có học vấn, học thức, gọi chung là tầng lớp hay đội ngũ trí thức ở nước ta. Trí thức, theo ý nghĩa tích cực và lành mạnh của khái niệm này phải là những người có tài và có đức, họ là nòng cốt để phát triển khoa học, giáo dục, xây dựng nền văn hóa và văn hiến của dân tộc, là đại diện cho tinh hoa trí tuệ của một dân tộc. Hiền tài cũng vậy. Nhân tài và hiền tài là cùng một bản chất. Trong sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân, của xã hội và của dân tộc, hiền tài là những nhân tài có đóng góp xuất sắc, có công lao và cống hiến to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có uy tín và ảnh hưởng sâu rộng được xã hội thừa nhận.

Dù khác nhau về nhiều mặt, từ đời sống và gia đình, từ hoàn cảnh lịch sử và thời đại đến cá tính và phong cách cũng như những lĩnh vực chuyên môn khác nhau mà họ có cống hiến, song nhân tài đều có những đặc điểm chung có thể nhận biết. Việc nhận biết những đặc điểm của nhân tài là rất cần thiết và có ý nghĩa, không chỉ trong ứng xử xã hội mà còn là cơ sở để xác định chính sách cho phù hợp để vừa phát triển được nhân tài vừa phát triển được xã hội.

Trước hết, nhân tài là những trí thức tiêu biểu. Không chỉ có những nhà giáo dục, những nhà khoa học mới là trí thức mà các nhà văn, nhà thơ, các nghệ sỹ hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, văn hóa, các lĩnh vực quản lý và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội… những người được gọi là nhân tài đều là những trí thức. Có người đã thành danh, nổi tiếng, các học giả hàng đầu, tên tuổi của họ được biết đến rộng rãi. Cũng có người tài năng đang phát triển, đang bộc lộ, đang hứa hẹn những triển vọng tốt đẹp. Đời sống xã hội có nhiều lĩnh vực, ngành nghề chuyên môn đa dạng, phong phú, ngày càng phát triển theo hướng chuyên môn hóa sâu. Lĩnh vực nào, nghề nghiệp nào cũng cần có nhân tài, nhưng trên thực tế, không phải lĩnh vực nào, nghề nghiệp nào cũng phát triển được nhân tài như nhau, đều nhau.

Người trí thức được đặc trưng bởi sự hiểu biết rộng và sâu, có kiến thức, kiến văn vững chãi, đủ làm nền tảng cho tư duy độc lập sáng tạo để hình thành tư tưởng. Trí thức hình thành qua đào tạo đồng thời với tự đào tạo. Chính tự đào tạo và đào luyện trong thực tiễn cuộc sống, với chí hướng rõ ràng và công phu khổ luyện, sự trải nghiệm trực tiếp trong trường học vĩ đại của cuộc sống lại gắn bó sâu nặng với nhân dân và dân tộc mình, với thời đại lịch sử mà những trí thức chân chính thường là con đẻ của thời đại ấy đã làm nên giá trị và cốt cách của người trí thức.

Từ xa xưa, trong các xã hội truyền thống, đã có những ngọn nguồn khác nhau của trí thức. Có trí thức hàn lâm, bác học được đào tạo theo chuẩn mực học đường mà cũng có không ít trí thức bình dân, từ trong dân chúng, họ hấp thụ được trí tuệ dân gian, là những người kết tinh và thể hiện những tinh hoa của dân gian, của đời sống hiện thực. Những nghệ nhân tài hoa, những nghệ sỹ dân gian của dòng văn học nghệ thuật truyền thống, từ tranh làng Hồ, đến dân ca quan họ vùng Kinh Bắc, đến ca trù, xẩm, xoan đặc sắc một thời, và âm vang ở mọi thời… những con người ở những trường hợp này cũng không thể không gọi là trí thức.

Bởi vậy, trong thực tế, trí thức nhân tài và nhân tài trí thức gắn liền làm một, biểu hiện lẫn nhau.

Trí thức trọng thực học để có thực lực và thực tài, xa lạ với những phù phiếm, hình thức, hư danh.

Người tài, nhân tài cốt ở thực chất, ở những cống hiến hữu ích cho đời, cho người, không chạy theo bằng cấp, không vướng bận bởi bằng cấp, danh hiệu, dù cho bằng cấp rất quan trọng, bởi nó đánh dấu những chuẩn mực, miễn là nó thật chứ không giả. Đã là nhân tài, hiền tài thì cái Tài, cái Đức, cái Trí và cái Tình của họ, cái Tâm và cái Tầm của họ phải được xã hội thẩm định, đánh giá, thừa nhận qua những đóng góp, cống hiến của họ. Nói tới trí thức nhân tài và nhân tài trí thức là nói tới lao động đặc thù của họ. Đó là lao động trí óc, lao động sáng tạo bậc cao. Lĩnh vực lao động này đòi hỏi sự tập trung cao độ, sự say mê, hết mình, quên mình trong công việc sáng tạo.

Chăm lo phát triển đội ngũ trí thức, lẽ dĩ nhiên phải tạo cho họ có điều kiện sống đầy đủ, ngày càng tốt hơn để họ có thể toàn tâm toàn ý cho công việc sáng tạo, không bận tâm vào những tất yếu mưu sinh thường nhật để có thể đem vào hoạt động lao động của mình toàn bộ sự tự do của một nhân cách trung thực và sáng tạo. Môi trường xã hội, bầu không khí tự do, sự tôn trọng và tin cậy lẫn nhau rất cần cho sự bộc lộ, nảy nở tài năng. Chỉ trong môi trường ấy mới có sự xuất hiện và phát triển thực sự nhân tài. Đó là môi trường văn hóa tinh thần với các giá trị cốt lõi: Dân chủ - Tự do - Công bằng - Bình đẳng, lòng nhân ái và đức khoan dung văn hóa.

Nhân tài là những cá thể sinh động, có cá tính mạnh mẽ, có bản lĩnh độc lập, trọng đạo lý và chân lý, họ sống bằng sự sáng tạo nên họ có nhu cầu và khát vọng lớn về Tự do.

Mỗi người tài là một cá thể, một bản ngã, một cái Tôi sinh động, một cái riêng không giống với cái riêng khác. Do đó, cá tính riêng, phong cách riêng, những sở trường và sở đoản riêng của những người tài cần được tôn trọng và nhất là sự ứng xử tinh tế, sao cho chỗ mạnh của họ luôn luôn được phát huy, những hạn chế, nhược điểm của họ - mà đã là con người, dù là người có tài thì cũng không ai là hoàn hảo, nên ai cũng có khuyết điểm… sẽ được khắc phục. Một tấm lòng nhân ái, một thái độ khoan dung, nhất là của người lãnh đạo đối với người tài sẽ có tác dụng to lớn đối với việc khích lệ nhân tài phát huy tài năng, cống hiến hết mình cho xã hội.

Nên nhớ rằng, khoan dung không chỉ là sự cảm thông, độ lượng mà quan trọng và căn bản hơn là tinh thần dân chủ, biết thừa nhận, biết chấp nhận, biết tôn trọng những sự khác biệt, những tính đa dạng trong một sự thống nhất chung. Thống nhất trong đa dạng, thống nhất của những cái khác biệt mới tạo nên sự phong phú, không rơi vào nghèo nàn, đơn điệu, miễn là những khác biệt, đa dạng ấy đồng quy ở mục đích chung vì dân giàu, nước mạnh, ở động cơ trong sáng, lành mạnh, được sống hữu ích cho đời, được gắn bó, phục vụ cho cộng đồng dân tộc, không đi ngược lại lợi ích chung, xu hướng phát triển chung.

Trí thức nói chung, nhất là những người tài quý trọng lao động và giá trị sáng tạo, là những nhân cách tự trọng cao về phẩm giá làm người nên họ coi trọng đạo lý và chân lý. Họ có sự mẫn cảm, nhạy cảm đặc biệt, có đời sống nội tâm và thế giới tinh thần phong phú, dễ bị tổn thương, dễ bị dằn vặt trước những nỗi đau khổ, bất công, ngang trái, những diễn biến phức tạp của thời thế và nhân thế cũng như nhân tình thế thái ở đời. Cả trí thức khoa học lẫn nghệ sỹ sáng tạo, với lao động tự do, họ đều có đòi hỏi và khát vọng lớn về tự do, tức là được làm chủ. Giác ngộ cái tất yếu và tự do trước hết là sự giác ngộ của trí tuệ, hiểu để mà tin, hoài nghi (hoài nghi khoa học) để mà tin, không tin một cách mù quáng và dễ dãi, không tự đánh mất mình. Tự do là lực đẩy của sáng tạo, đạo đức và nhân cách đảm bảo cho sự sáng tạo hướng vào xã hội, vì sự nghiệp chung, biết hy sinh và dâng hiến tất cả cho lý tưởng phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Hồ Chí Minh là một mẫu mực, điển hình về lẽ sống cao thượng đó.

Nhà nước với thể chế dân chủ - pháp quyền phải đảm bảo những thước đo đánh giá công bằng, minh bạch để phát triển nhân tài, tỏ rõ sự tôn trọng, quý trọng nhân tài vì sự phát triển phồn vinh của xã hội và sự vững bền của chế độ.

Nhân tài là những người có đức tính khiêm tốn và trung thực, cũng là những người thẳng thắn, cương trực, có niềm tin vào chính mình, có đức tin lớn vào sự nghiệp mà mình lựa chọn và theo đuổi, lao động cần mẫn, sáng tạo, ý thức rõ rệt về sự Đổi mới và nhanh chóng nhập cuộc với Đổi mới.

Ý thức rõ về giá trị của lao động sáng tạo và sự nghiệp mà mình theo đuổi nên những người trí thức chân chính, những nhân tài đích thực là những người mang phẩm chất rất tốt đẹp, đó là đức khiêm tốn, trung thực, thẳng thắn và cương trực.

Nhân tài, hiền tài và trí thức nói chung nặng lòng gắn bó với nhân dân, với đất nước, với dân tộc và thời đại.

Nhân tài xuất hiện không ở đâu khác ngoài nhân dân và Tổ quốc mình, gắn bó với số phận, hoàn cảnh và triển vọng của dân tộc mình. Yêu nước và tinh thần dân tộc là một phẩm chất nổi bật của những nhân tài trí thức. Đó cũng là giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, bền vững của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Trong thời đại ngày nay, những người trí thức, những nhân tài, nếu thực sự yêu nước, thương dân, có lòng tự tôn, tự hào dân tộc, tất yếu sẽ đồng hành cùng nhân dân và dân tộc mình trên con đường lớn của phát triển vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

Hệ giá trị tinh thần mà mỗi người Việt Nam yêu nước, tiêu biểu ở các nhân tài trí thức mãi mãi theo đuổi dưới ngọn cờ của tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam là: Tổ quốc - Dân tộc - Nhân dân - Thời đại và chủ nghĩa xã hội. Trong quá khứ, vì thấm thía nỗi nhục nước mất, nhà tan, dân chúng thống khổ trong vòng nô lệ, những nhân tài trí thức đã cùng nhân dân mình chiến đấu dũng cảm hy sinh vì độc lập tự do. Giác ngộ lý tưởng cách mạng và vững bước trên con đường đấu tranh cách mạng do Đảng và Bác Hồ vạch ra, biết bao nhân tài trí thức đã cùng với toàn dân phấn đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Nhân tài phải mang sức mạnh liên kết, hợp tác, đề cao trách nhiệm xã hội, đóng vai trò nòng cốt để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, làm cho Việt Nam vững bước trên con đường phát triển nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của đổi mới: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Với đà phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, của hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội nước ta đang biến đổi nhanh chóng. Yêu cầu phát triển đòi hỏi phải có đội ngũ nhân tài đông đảo, phong phú, đa dạng, chất lượng cao, ngang tầm khu vực và thế giới. Trong đội ngũ này, có cơ cấu ngành nghề, thế hệ, giới tính và dân tộc, trong các thành phần kinh tế khác nhau, trong các lĩnh vực khác nhau, hoạt động ở trong nước và ở cả ngoài nước, được chú trọng cả trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, trong an ninh và quốc phòng, trong ngoại giao đối ngoại và trong quản lý xã hội đối nội.

Cuộc cạnh tranh sức mạnh và sự thành bại giữa các nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, có thể nói là sự cạnh tranh quyết liệt về nhân tài, hiền tài, nhất là trong khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo.

Những đặc điểm nêu trên về nhân tài cần được nhận thức và vận dụng trong hoạch định chiến lược và chính sách phát triển nhân tài Việt Nam trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI.

3. Công tác nhân tài ở Việt Nam hiện nay - Mấy khuyến nghị về đổi mới nhận thức và chính sách

Công tác nhân tài trước yêu cầu phải thực hiện đột phá để phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam, bao quát cả một hệ vấn đề rộng lớn và phức tạp. Đó là giáo dục nhận thức và hình thành dư luận xã hội tích cực, đồng thuận, sao cho toàn dân, cả nước, cả dân tộc đều quan tâm tới nhân tài. Đổi mới nhận thức xã hội về vấn đề nhân tài đòi hỏi trước hết sự đổi mới nhận thức mạnh mẽ trong Đảng và Nhà nước, trong cơ quan lãnh đạo cấp cao, ở tầm vĩ mô, chiến lược, trong các cơ quan tổ chức hoạch định chính sách. Đó còn là công phu tổ chức thực hiện chính sách, xác định thể chế, tìm tòi cơ chế tạo động lực phát triển các tài năng, thu hút trọng dụng nhân tài, trọng đãi hiền tài, đào tạo bồi dưỡng, phát hiện nuôi dưỡng những tài năng, có tầm nhìn và hành động sao cho Việt Nam trong thế kỷ XXI xuất hiện, nảy nở nhiều tài năng lớn, kiệt xuất, lỗi lạc, ngang tầm quốc tế.

Đất nước, dân tộc Việt Nam trong tương lai phải có đội ngũ nhân tài, hiền tài đông đảo, trên nhiều lĩnh vực, không chỉ ngang tầm quốc tế và thế giới mà còn làm rạng rỡ truyền thống hàng ngàn năm văn hóa và văn hiến của dân tộc ta.

Trong đội ngũ ấy, phải có những nhân tài chính trị, những chính khách, lãnh tụ lỗi lạc ở tầm vóc nhà tư tưởng, nhà chiến lược có tầm vóc dân tộc, quốc tế và thời đại. Phải có những nhân tài khoa học - công nghệ và trí thức giáo dục với những trí tuệ uyên bác, những nhà bác học, những học giả có uy tín lớn được thế giới công nhận; lại phải có những nhân tài văn hóa nghệ thuật có tài năng lớn, có tác phẩm để đời, tương xứng với lịch sử và tầm vóc dân tộc, góp vào đời sống văn hóa thế giới những tinh hoa ưu tú của Việt Nam. Chúng ta trong hội nhập quốc tế phải có những nhân tài kinh tế, những doanh nhân tầm cỡ để khẳng định thương hiệu Việt Nam. Để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, ngoài tiềm lực quốc phòng - an ninh phải hết sức chăm lo, đầu tư đủ mạnh các nguồn lực để phát triển, lại phải có những nhân tài quân sự trí tuệ, những tướng lĩnh mưu lược, dũng cảm, được đào tạo và đào luyện trong môi trường hiện đại, phi truyền thống… Dân tộc Việt Nam trên con đường phát triển, hiện đại hóa, cần đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nhân tài trẻ tuổi, làm phát lộ sớm những mầm mống tài năng, cả những thiên tài trong tương lai.

Có biết bao công việc phải trù tính, lo toan, đầu tư thực hiện và tổ chức quản lý.

Trước hết, cần thay đổi nhận thức về giáo dục, xây dựng một triết lý giáo dục hiện đại cũng như triết lý phát triển xã hội nói chung làm cơ sở lý luận cho việc đổi mới toàn diện, căn bản, mạnh mẽ nền giáo dục Việt Nam. Toàn diện và đồng bộ trong giáo dục, đòi hỏi phải bắt đầu từ giáo dục mầm non, phổ thông tới đại học và đào tạo sau đại học. Phải phục hưng lại giá trị và nhân cách giáo dục ở đội ngũ những người thầy. Chấn hưng đạo đức trong giáo dục là mắt xích quan trọng để chấn hưng nền giáo dục nói chung, từ đó mà chấn hưng dân tộc.

Cần có một cuộc cách mạng không chỉ về mục tiêu, nội dung giáo dục mà còn là phương pháp giáo dục để có nhân tài và phát triển nhiều nhân tài.

- Phải đặt chiến lược nhân tài trong tổng thể chiến lược con người Việt Nam mà nền móng của nó là chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam.

- Đột phá về khoa học - công nghệ để nâng cao mạnh mẽ tiềm lực trí tuệ Việt Nam trong kỷ nguyên cách mạng khoa học - công nghệ và xã hội thông tin.

Trong lĩnh vực này phải rất chú trọng khoa học cơ bản, hàn lâm, đặc biệt là trình độ khoa học xã hội - nhân văn Việt Nam, khoa học lý luận Việt Nam. Không có cơ bản không thể tiến nhanh và đi xa. Nhân tài trước hết là tài năng trí tuệ, tư tưởng.

- Phát triển văn hóa Việt Nam trong sự nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại. Tài năng và nhân tài bao giờ cũng được nuôi dưỡng và phát triển trong môi trường văn hóa dân tộc đồng thời biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tiếp biến để phát triển.

- Rất cần thiết và quan trọng đó là công tác tổ chức, cán bộ, là chính sách và cơ chế sao cho tài năng, nhân tài được bộc lộ, được trọng dụng, được tôn trọng./.

Nguồn Tạp chí Tuyên giáo

Số lượt truy cập
Hôm nay:
868
Hôm qua:
1983
Tuần này:
11181
Tháng này:
42827
Tất cả:
4.407.707