HƯỞNG ỨNG NGÀY SÁCH VÀ VĂN HOÁ ĐỌC VIỆT NAM (21/4/2021 - 21/4/2024)

Thời cơ trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 – bài học đi cùng năm tháng

Đăng lúc: 16:33:07 11/11/2014 (GMT+7)4739 lượt xem

Thời cơ, một khái niệm rất quan trọng gắn liền với sự thành bại của mỗi cá nhân, của các đảng phái chính trị và của mỗi cộng đồng với những quy mô khác nhau

 PGS,TS. Phạm Xanh

                                                                                 Đại học Quốc gia Hà Nội

             Thời cơ, một khái niệm rất quan trọng gắn liền với sự thành bại của mỗi cá nhân, của các đảng phái chính trị và của mỗi cộng đồng với những quy mô khác nhau. Hồ Chí Minh đã xác định tầm quan trọng có tính khái quát của khái niệm đó qua hai câu thơ trong bài thơ Học đánh cờ:

                              Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,

                              Gặp thời, một tốt cũng thành công.(1)

            Trong cuộc sống thường nhật ta còn bắt gặp một số khái niệm khác có nghĩa tương tự như “vận hội”, “cơ hội”. Liên quan tới chủ đề Cách mạng tháng Tám năm 1945 đang bàn ở đây, xin được dùng khái niệm phổ biến và thông dụng nhất là “thời cơ”. Vậy, thế nào là thời cơ và tại sao nó trở thành bài học lớn, bài học đi cùng năm tháng, bài học xuyên nhiều thế kỷ mà mỗi người, đặc biệt những người đứng đầu các đảng phái chính trị, đứng đầu xã tắc cần phải học thuộc nó và biết vận dụng nó trong đời sống chính trị - kinh tế của đất nước?

            Một cuộc khởi nghĩa hoặc tổng khởi nghĩa muốn thắng lợi đòi hỏi phải hội đủ những điều kiện bên trong và bên ngoài (chủ quan và khách quan) mà ta thường gọi là điều kiện chín muồi. Trong lịch sử cận - hiện đại Việt Nam, các phong trào, các cuộc khởi nghĩa không thành công trước hết đều bắt nguồn từ việc chưa hội đủ các điều kiện cần thiết. Chẳng hạn như sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng đầu tháng 2 năm 1930 là một ví dụ điển hình khi thời cơ chưa xuất hiện, coi khởi nghĩa như một giải pháp tình thế, như một trò chơi chính trị “không thành công cũng thành nhân” như lãnh tụ Nguyễn Thái Học đã từng tuyên bố. Thế hệ cách mạng Việt Nam tiếp theo liền rút ra bài học – không được đùa với khởi nghĩa. Thời cơ là một thành tố khách quan, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân nào, của một tổ chức chính trị nào. Nó xuất hiện một cách bất ngờ và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Nói như vậy không có nghĩa là thời cơ là một cái gì đó không thể biết trước được, không thể đoán định được, một thứ “sắc sắc không không” như quan niệm của Phật giáo. Điều lý thú cũng chính ở chỗ đó – có mà không có và ngược lại. Vì thế, không phải ai cũng có thể dự báo được thời cơ, theo dõi nó, nắm bắt nó và cuối cùng là lợi dụng nó để đạt tới cái đích của mình.

             Chúng ta hãy ngược dòng lịch sử xem Đảng Cộng sản Việt Nam, một tổ chức chính trị mạnh mẽ và rộng lớn nhất lúc đó đã dự báo thời cơ cho cuộc vùng dậy xung thiên vào tháng 8-1945 từ bao giờ. Những nét đại lược về thời cơ đã thấy lấp ló trong Nghị quyết tháng 5-1941, được thông qua tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc và Quyền Tổng Bí thư Trường Chinh tại Pắc Bó, Cao Bằng. Nghị quyết đã dự báo một cách chính xác về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của nó: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều nước thành công…”(2).  Xin nhớ là Nghị quyết của Hội nghị BCH TW lần thứ VIII được thông qua khi Liên Xô chưa tham chiến. Như vậy, thời cơ sẽ đến với nhiều nước trên trái đất này khi chiến tranh thế giới II kết thúc, phần thắng nghiêng về Liên Xô và phe dân chủ. Đó là một khả năng làm xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng nhiều nước, trong đó có chúng ta. Như chúng ta đều biết, dự báo đó hoàn toàn chính xác, đặc biệt ở châu Âu. Chủ nghĩa xã hội từ một nước trở thành một hệ thống. Việt Nam ở châu Á đang rên xiết dưới ách thống trị của phát xít Nhật và thực dân Pháp, phụ thuộc phần lớn vào cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, nơi mà cuộc chiến Mỹ - Nhật đang bước vào giai đoạn chót.

            Từ rất sớm, Đảng ta, với sự phân tích chính xác, khoa học mâu thuẫu trong hàng ngũ kẻ thù đã dự báo cuộc đảo chính này và vạch ra những kế hoạch hành động khi tình hình mới tới. Bài báo đầu tiên dự báo về cuộc đảo chinh của Nhật ở Đông Dương là bài “Bóc trần mưu gian của đế quốc Nhật, thống nhất hành động đánh đổ thù chung” của Tổng Bí thư Trường Chinh, đăng trên báo Cờ Giải phóng, số 3, ngày 15-2-1944. Trong bài báo đó, sau khi phân tích mâu thuẫn ngày càng tăng trong hàng ngũ kẻ thù, tác giả đã đi tới một nhận định đúng đắn là sớm hay muộn cuộc đấu súng giữa chúng với nhau nhất định sẽ xảy ra: “Sự xung đột giữa Nhật - Pháp ngày thêm sâu sắc. Cho nên Nhật gấp rút”. Từ đó, trong suốt năm 1944 và những tháng đầu năm 1945, trên những tờ báo, trong những văn kiện chính thức của Đảng ta, vấn đề “Cuộc đảo chính của phát xít Nhật” luôn luôn được nhắc tới nhằm hướng công tác chuẩn bị của Đảng và phong trào cách mạng của quần chúng chủ động đón nhận nó. Vì thế, khi cuộc đảo chính của Nhật nổ ra đêm 9 - 3 - 1945, Đảng ta không bị động trước thời cuộc mà trái lại chủ động vạch ra những nhiệm vụ chiến lược sát đúng để đưa cách mạng tiếp tục tiến lên. Ngay trong đêm Nhật - Pháp bắn nhau, từ chập tối, Hội nghị thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, Bắc Ninh. Sợ bị lộ, Hội nghị chuyển sang nhà ông Đám Thi, làng Đình Bảng họp tiếp. Trên đường đi bỗng nghe tiếng súng nổ dồn từ phía Hà Nội. Ấy là thời khắc cuộc đảo chính của phát xít Nhật lật đổ Pháp. Các đồng chí dồn bước tới địa điểm mới, họp tiếp và ra ngay Chỉ thịNhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta vào ngày 12-3-1945. Bản Chỉ thị đó lập tức được chuyển tới nhà in bí mật của Đảng tại làng Tráng Việt, huyện Mê Linh, Hà Nội. Ông Nguyễn Lương Hoàng phụ trách nhà in, đã cấp tốc cho in hàng nghìn bản và theo những đường dây bí mật chuyển đi các nơi.

            Bản Chỉ thị nhận định cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương đã tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực chín muồi nhưng cũng đã tạo ra những tiền đề cần thiết thúc đẩy cuộc khởi nghĩa chóng tới. Trong Bản Chỉ thị đó, Ban Chấp hành Trung ương, ngoài việc xác định kẻ thù mới và đề ra khẩu hiệu đấu tranh mới, còn dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước, đó là 1) Quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật và 2) Nhật Bản đầu hàng Đồng minh. Dưới ánh sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ Trung ương đến địa phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Sau khi Hồng quân Liên Xô tiêu diệt một triệu quân Quan đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc và Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôshima và Nagazaki, ngày 9-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh của Nhật Bản đã họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pôxđam. Sau những cuộc thương lượng giữa Nhật Bản và Đồng minh, ngày 14-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và Nội các Nhật Bản với sự hiện diện của Nhật hoàng đã nhóm họp và thông qua quyết định đầu hàng Đồng minh. Đúng giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng Minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Thời cơ xuất hiện như khả năng thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Tin đó đến với Hồ Chí Minh rất sớm qua bản tin đài BBC mà Người nghe được ở lán Nà Lừa, Tân Trào (Tuyên Quang). Thời cơ có một không hai đã đến với dân tộc chúng ta “ Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do độc lập!” (Lời của Hồ Chính Minh nói với ông Võ Nguyên Giáp ở lán Nà Lừa). Lập tức Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban khởi nghĩa ra quân lệnh số 1:

            “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà… Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”(3).

             Tiếp đó, Hội nghị Đảng toàn quốc và Quốc dân Đại hội nhóm họp tại Tân Trào quyết định phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước.

            Như trên đã nói, thời cơ xuất hiện và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Trong cách mạng tháng 10 Nga, thời cơ chỉ tồn tại trong vòng 24 giờ. Vậy, trong cuộc cách mạng của ta, thời cơ tồn tại trong bao lâu? Nó tồn tại một cách khách quan trong vòng hai mươi hôm, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng (15-8) và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pôxđam (5-9). Nếu phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày 15-8 và sau ngày 5-9 đều không có khả năng thành công, bởi trước 15-8 quân Nhật còn mạnh và sau ngày 5-9, trên đất nước có nhiều kẻ thù (Từ vĩ tuyến 16 trở ra, quân Tưởng - Mỹ và sau đó là những kẻ theo đóm ăn tàn và từ vĩ tuyến 16 trở vào là quân Anh và sau nó là quân Pháp trở lại xân lược nước ta). Chỉ có thể giành chính quyền thắng lợi trong ngưỡng thời gian khắc nghiệt đó. Cuộc cách mạng tháng Tám mà Đảng và Mặt trận Việt Minh phát động, như cơn sóng thần, đã cuốn phăng chính quyền phát xít Nhật và tay sai, ngày 30-8, vua Bảo Đại đọc Chiếu thoái vị và tuyên bố “thà làm dân một nước tự do, còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Trên đống đổ nát đó, ta bắt tay xây dựng chế độ Cộng hòa Dân chủ bằng việc công bố trước quốc dân Việt Nam và nhân dân thế giới bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Vườn hoa Ba Đình chiều ngày 2-9-1945. Như vậy, mọi việc chúng ta hoàn tất trước ba ngày để ngày 5-9-1945, với tư cách là chủ nhà, Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đón tiếp quân Đồng Minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta. Trong những bài học về thắng lợi của cách mạng tháng Tám thì bài học về dự báo thời cơ, theo dõi nó và lợi dụng nó là bài học quan trọng nhất trên bình diện lý luận và thực tiễn, vì thế nó vẫn đi cùng với năm tháng.

             Đảng ta đã học thuộc lòng bài học đó và đặc biệt đã vận dụng thành công bài học đó trong những thời đoạn lịch sử không thể nào quên sau đó.

             Xin được dẫn một vài ví dụ điển hình về thời cơ trên mặt trận ngoại giao và quân sự trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

            Về cơ hội trong hoạt đông ngoại giao.

            Từ tháng 12-1946, chúng ta tiến hành cuộc kháng chiến trong vòng vây và sự phong tỏa của thực dân Pháp. Ngày 01-10-1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do Mao Trạch Đông đứng đầu, được thành lập. Cơ hội cho sự phá vây ngoại giao đã tới. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc lên đường đi Bắc Kinh. Tại đây, ngày 18-01-1950, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với nước ta. Tiếp đó, Người đi Mátxcova và cũng tại đây, ngày 30-01-1950, Liên Xô chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nước ta. Từ đó, lần lượt các nước trong phe dân chủ công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh và thiết lập quan hệ ngoại giao với nước ta. Và như vậy, cuộc phá vây ngoại giao đã hoàn toàn thắng lợi. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chúng ta cũng đã tận dụng thời cơ sau thắng lợi tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, mở cuộc hòa đàm với Hoa Kỳ tại Paris tháng 5-1968.

            Về thời cơ trên mặt trận quân sự.

            Cuối năm 1974 – đầu năm 1975, khi so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường miền Nam thay đổi mau lẹ, có lợi cho cách mạng. Quân ta đã giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch đường 14- Phước Long. Chiến thắng Phước Long mà các nhà quân sự thường gọi là chiến dịch trinh sát chiến lược như là phép thử sự phản ứng của Chính quyền Sài Gòn và Hoa Kỳ - sự suy yếu và bất lực của quân đội Sài Gòn và sự hạn chế của Hoa Kỳ trong việc can thiệp trở lại. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Tuy nhiên, Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.

            Sau thắng lợi chiến dịch Tây nguyên và chiến dịch Huế - Đà nẵng, Bộ Chính trị thấy rõ thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã xuất hiện: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam” và xác định quyết tâm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân là “phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỷ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa (trước tháng 5 – 1975).   

            Thời cơ đã đến, cả nước xốc tới với khí thế xung thiên. 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cơ cách mạng tung bay trên dinh Độc lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh.

            Trong thời kỳ đổi mới, trên nền tảng ổn định chính trị, Đảng ta thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa theo phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước”, đặc biệt coi trọng chính sách đối ngoại đối với Hoa Kỳ, một nước có ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới. Qua bao thăng trầm một chính sách đối ngoại cởi mở đó đã tạo ra những cơ hội tốt đẹp thu hút vốn của các nước chảy vào Việt Nam nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đến năm 2020 Việt Nam trở thành một nước phát triển. Vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một cao. Việt Nam là thành viên của Liên Hợp Quốc, của Hiệp hội các nước Đông Nam Á và mới đây, ngày 7-11-2006 là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới. Những bước tiến thần kỳ của đất nước thời kỳ đổi mới có một phần Đảng ta nắm vững và vận dụng bài học thời cơ trong cách mạng tháng Tám năm 1945.

            Và bài học thời cơ trong cách mạng tháng Tám vẫn là bài học đi cùng với năm tháng, nếu chúng ta muốn chiến thắng và không muốn tụt hậu.

 

 

    Chú thích:

  1. Hồ Chí Minh. Nhật ký trong tù. NXB Chính trị quốc gia. HN. 2003, tr., 107.
  2. Văn kiện ĐảngToàn tập. Tập 7. NXB Chính trị quốc gia. HN, 2000. tr., 100.`
  3. Văn kiện Đảng 1930-1945. Tập III, tr., 140-141.
Số lượt truy cập
Hôm nay:
1515
Hôm qua:
1983
Tuần này:
11828
Tháng này:
43474
Tất cả:
4.408.354