NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 114 NĂM NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ 8/3 ( 8/3/1910 – 8/3/2024) VÀ 1984 NĂM KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG!

Vị trí, vai trò của Thanh Hóa trong công cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp xâm lược (1945-1954)

Đăng lúc: 09:16:27 12/11/2014 (GMT+7)39086 lượt xem

Vị trí, vai trò của Thanh Hóa trong công cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp xâm lược (1945-1954) PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Thanh Hóa có vai trò đặc biệt quan trọng, đóng góp xứng đáng vào thắng lợi chung của cả nước và của nước bạn Lào.

 Vị trí, vai trò của Thanh Hóa trong công cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp xâm lược (1945-1954)

PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà

Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng

 

      Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Thanh Hóa có vai trò đặc biệt quan trọng, đóng góp xứng đáng vào thắng lợi chung của cả nước và của nước bạn Lào.

      Thanh Hóa là một tỉnh có những đặc điểm về tự nhiên, dân cư, xã hội, truyền thống lịch sử khá nổi bật. Đây là tỉnh có diện tích lớn, dân số đông, tài nguyên khoáng sản và nguồn nhân lực dồi dào. Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi về thăm Thanh Hóa sau ngày Toàn quốc kháng chiến (2-1947), đã khái quát Thanh Hóa có ba lợi thế: "người đông, đất rộng, của nhiều". Những lợi thế căn bản này làm cho vị trí, vai trò của Thanh Hóa được nhân lên, trở thành một trong những tỉnh hậu phương lớn nhất, quan trọng nhất, đóng góp có hiệu quả nhất cho cuộc kháng chiến của cả nước.

      Thanh Hóa là địa bàn vừa có biển, đồng bằng, vừa có rừng, có núi. Thanh Hóa là tỉnh phía Bắc của Khu 4, giáp với Khu 3, có đường biên giới chung với nước bạn Lào, nối với  miền núi Tây Bắc Việt Nam. Đồi rừng chiếm tới 70% diện tích đất đai Thanh Hóa. Hệ thống sông ngòi, đường giao thông thủy bộ, đường sắt đã tạo nên một hệ thống giao thông đa dạng, khá thuận tiện cho việc vận chuyển, đi lại.

      Thanh Hóa còn là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân các dân tộc Thanh Hóa đã đoàn kết, cùng nhau xây dựng cuộc sống mới, bảo vệ nền độc lập, tự do mới giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền địa phương.

       Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp mở đầu cuộc tái xâm lược nước ta bằng việc nổ súng đánh chiếm Sài Gòn. Mười sáu tháng sau, ngày 19 tháng 12 năm 1946, cuộc kháng chiến bùng nổ trên phạm vi cả nước. Thanh Hóa không nằm trong khu vực chiến sự nổ ra đêm ngày toàn quốc kháng chiến. Tuy nhiên, với vị thế của mình, Thanh Hóa đã thể hiện vị trí, vai trò quan trọng của một tỉnh vừa là vùng tự do, vừa là hậu phương và có lúc trở thành tiền tuyến. Điều này thể hiện ở mấy nội dung sau:

         Một hậu phương rộng lớn và vững chắc

      Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở Thanh Hóa diễn ra trong thời gian ngắn và giành được thắng lợi là cơ sở thuận lợi để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thanh Hóa xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân các cấp, tạo dựng cuộc sống mới, chuẩn bị thực lực để bước vào kháng chiến chống lại quân Pháp xâm lược.

      Để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa đã quan tâm tổ chức lực lượng vũ trang. Chi đội mang tên Đinh Công Tráng được thành lập trong những ngày Tổng khởi nghĩa, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh, với quân số tương đương một trung đoàn, chia thành 9 đại đội, là một trong những đơn vị chủ lực cấp tỉnh đầu tiên trong cả nước. Đây là đơn vị làm nòng cốt để xây dựng các tổ chức vũ trang ở các huyện, thị trong tỉnh. Chi đội Đinh Công Tráng đã đóng vai trò rất quan trọng trong xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ vùng tự do và hậu phương Thanh Hóa trước sự chống phá của các lực lượng phản động và các cuộc tiến công của địch trong suốt những năm kháng chiến.

      Bên cạnh việc xây dựng đơn vị chủ lực của tỉnh, Đảng bộ và chính quyền các cấp ở Thanh Hóa còn chú trọng tổ chức các đội dân quân du kích tập trung và không tập trung, các đội tự vệ, đảm đương nhiệm vụ giữ gìn trật tự trị an, trấn áp phản cách mạng, sẵn sàng phối hợp với chủ lực và nhân dân đánh địch bảo vệ địa phương.

      Do hiệp định về quân sự đi kèm Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 không quy định ở Thanh Hóa có địa điểm đóng quân của quân Pháp, thay thế quân Trung Hoa dân quốc, vì thế, Thanh Hóa trở thành vùng tự do, thành căn cứ hậu phương không chỉ của Khu 4 mà của cả nước, của cả cuộc kháng chiến, của nước bạn Lào. Nhận thức được vai trò, nhiệm vụ trọng yếu đó, cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang, sửa chữa sản xuất vũ khí, đạn dược, cử các đơn vị lên đường Nam tiến, phối hợp chiến đấu với quân dân miền Nam, quân và dân Thanh Hóa ngay từ đầu kháng chiến đã thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chỉ thị của Trung ương Đảng, chính phủ, tổ chức tăng gia sản xuất để cứu đói cho nhân dân trong tỉnh và dành một phần giúp các tỉnh bạn. Công tác xóa nạn mù chữ, phá bỏ các tập quán, hủ tục lạc hậu cũng được quan tâm tổ chức thực hiện.

      Toàn quốc kháng chiến nổ ra được hai tháng, trước khi lên Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành thời gian vào thăm Thanh Hóa, vào trung tuần tháng 2 năm 1947. Trong những ngày ở Thanh Hóa, Người đã tranh thủ gặp gỡ, nói chuyện, động viên cán bộ Đảng, chính quyền, các tầng lớp nhân dân thị xã Thanh Hóa khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Bằng những lời lẽ giản dị, mộc  mạc, chân tình, Người giải thích chủ trương, nội dung đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình của Đảng; tình hình cuộc kháng chiến hiện nay; triển vọng của cuộc kháng chiến. Trên cơ sở đó, Người nêu lên yêu cầu, nhiệm vụ đối với cán bộ, quân dân cả nước nói chung và Thanh Hóa nói riêng để góp phần làm cho kháng chiến mau thắng lợi.

       Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định vị trí, vai trò của Thanh Hóa là một tỉnh hậu phương trực tiếp, một tỉnh kiểu mẫu. Người yêu cầu: "Tỉnh Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu thì làm sao phải cho mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự phải là kiểu mẫu". Để làm tốt vai trò một tỉnh kiểu mẫu, một hậu phương trực tiếp, theo Người, Thanh Hóa phải "làm cho người nghèo đủ ăn; Người đủ ăn thì khá giàu; Người khá giàu thì giàu thêm; Người nào cũng biết chữ; người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước". Muốn phấn đấu làm được như vậy, cần "Đem tài dân, sức của dân, làm lợi cho dân". Các kế hoạch đề ra về quân sự, kinh tế, văn hóa, tăng gia sản xuất...phải sao cho thiết thực, có khả năng thực hiện được...

      Trong bối cảnh cuộc kháng chiến diễn ra gặp muôn vàn khó khăn, bị kẻ thù bao vây, không nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ từ bên ngoài, thì quan điểm, đường lối kháng chiến của Đảng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh phổ biến, truyền đạt cho quân và dân Thanh Hóa rất rõ ràng, đi vào lòng người.

      Đường lối kháng chiến dựa vào toàn dân, đánh địch toàn diện, dựa vào sức mình, động viên và bồi dưỡng sức dân, vai trò của hậu phương trực tiếp, kiểu mẫu; kế hoạch tổ chức kháng chiến... mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên, là cơ sở cho Đảng bộ, chính quyền, quân và dân Thanh Hóa tổ chức bộ máy kháng chiến, xây dựng hậu phương kháng chiến một cách có hiệu quả và vững chắc. Muốn huy động được sức dân thì phải động viên nhân dân, làm lợi cho dân, phải làm cho người nghèo đủ ăn, bởi khi người dân đủ ăn, không phải dồn hết tâm trí để lo không bị đói thì họ sẵn sàng tham gia các công việc kháng chiến, sẵn sàng đóng góp vật chất cho kháng chiến.

     Không chỉ quan tâm nhắc nhở các cấp bộ Đảng, chính quyền Thanh Hóa phải lo cho dân nghèo đủ ăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn lưu ý phải làm sao cho người nào cũng biết chữ. Người đã từng nói: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì mới chỉ đủ ăn thôi thì chưa đủ, muốn xây dựng cuộc sống mới, muốn đánh thắng kẻ thù xâm lược thì mỗi người dân phải hiểu, phải ý thức được bổn phận và trách nhiệm của mình, phải biết đọc, biết viết để tích lũy tri thức, để sáng tạo trong hoạt động công tác và chiến đấu.

       Chủ tịch Hồ Chí Minh mong mỏi và yêu cầu Thanh Hóa phải phấn đấu trở thành tỉnh kiểu mẫu về chính trị, kinh tế, quân sự. Một tỉnh đất rộng, người đông, giàu tài nguyên trở nên vững mạnh về chính trị, kinh tế, quân sự sẽ là một hậu phương kháng chiến kiểu mẫu, chỗ dựa đáng tin cậy cho những người chiến đấu ngoài mặt trận.

       Có ý kiến cho rằng, không phải bỗng nhiên Chủ tịch Hồ Chí Minh vào Thanh Hóa sau ngày toàn quốc kháng chiến trước khi Người lên Việt Bắc. Với tầm nhìn chiến lược sắc sảo, rộng lớn, Người muốn chọn lựa một căn cứ đứng chân thứ hai cho các cơ quan của Trung ương để lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến phòng khi căn cứ địa Việt Bắc bị kẻ thù chiếm đóng. Thanh Hóa chính là nơi được Người nghĩ tới vì đây là nơi hội đủ và đáp ứng được các yêu cầu của một hậu phương, căn cứ địa chung cho cả nước. Theo chúng tôi, ý kiến nêu trên là có cơ sở bởi vị trí, vai trò quan trọng và sự hiệu quả của hậu phương, căn cứ địa Thanh Hóa đã được minh chứng trên thực tế trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để Thanh Hóa trở thành và làm tròn vai trò hậu phương kháng chiến thì công tác quân sự, chuẩn bị kháng chiến và tiêu thổ kháng chiến trở nên rất quan trọng, cần được ưu tiên thực hiện nhằm bảo vệ căn cứ hậu phương trước các cuộc tiến công của kẻ thù.

      Quán triệt sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ, chính quyền các cấp cùng toàn thể quân và dân Thanh Hóa đã đoàn kết một lòng, chung tay góp sức xây dựng và bảo vệ hậu phương ngày càng vững mạnh, góp phần to lớn vào thắng lợi chung. Những hoạt động và đóng góp của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến thể hiện trên những nội dung cụ thể sau:

      Đã triển khai mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến: chuyển mọi sinh hoạt, công tác sang thời chiến. Các cơ quan dân, chính Đảng, các tổ chức, đoàn thể nhanh chóng sắp xếp tổ chức theo hướng gọn nhẹ, tiện cơ động, đảm bảo an toàn, hiệu quả. Chọn lựa và xác định một số địa điểm trong tỉnh để xây dựng khu căn cứ an toàn, lấy đó làm nơi đứng chân chỉ đạo kháng chiến cho lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện.

      Để làm tốt công tác phá hoại tiêu thổ kháng chiến nhằm chặn bước tiến của địch, nhân dân các thị trấn, đặc biệt là thị xã Thanh Hóa, đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi phá hoại để kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ trương của chính phủ, đã thành lập các Ban phá hoại, tháo dỡ các công trình kiên cố, đào đường, đắp ụ, phá cầu, cống, đường ray xe lửa, tháo dỡ, vận chuyển máy móc, nguyên vật liệu, lương thực, thuốc men, vũ khí, đạn dược lên căn cứ; Ban tản cư đã kịp thời sơ tán những người già, phụ nữ, trẻ em khỏi các thị xã, thị trấn đề phòng địch đánh tới; thực hiện vườn không nhà trống.

      Các làng chiến đấu được lập nên, các hào chiến đấu, ụ tác chiến, bãi cắm chông xuất hiện sẵn sàng đánh địch.

      Đã thành lập các tổ chức như "Hội mẹ chiến sĩ", "Hội phụ lão kháng chiến", "Hội giúp binh sĩ bị nạn", mở các cuộc vận động, lập các quỹ kháng chiến nhằm huy động sự đóng góp của nhân dân.

      Đã tổ chức và đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất, phong trào thi đua trong các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân, kể cả trong các đơn vị lực lượng vũ trang nhằm thu hoạch, tích lũy lương thực, thực phẩm, sản xuất những nhu yếu phẩm phục vụ kháng chiến.

       Đã phát động và tổ chức rộng rãi phong trào bình dân học vụ để xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí và sự hiểu biết của nhân dân về nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm đối với kháng chiến.

       Sự vững chắc, hiệu quả của căn cứ hậu phương Thanh Hóa đối với chiến trường chính Bắc Bộ cũng như chiến trường Bình Trị Thiên và chiến trường Lào thể hiện cụ thể ở vai trò quan trọng của vùng đất căn cứ và bằng những con số. Bên cạnh việc tự xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân của tỉnh làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ địa bàn, chi viện cho các chiến trường, Thanh Hóa là nơi ra đời của Đại đoàn chủ lực thứ hai của quân đội, sau Đại đoàn 308 Quân Tiên Phong, đó là Đại đoàn 304 (sau được vinh dự mang tên là Đại đoàn Vinh Quang), Thanh Hóa còn đóng góp nhiều lực lượng để tổ chức Đại đoàn 320 (Đại đoàn Đồng Bằng); còn là nơi đứng chân của Đại đoàn 316 trước khi tiến lên Tây Bắc tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.

      Trong hầu hết các chiến dịch lớn của quân đội, Thanh Hóa là tỉnh đã có đóng góp to lớn sức người, sức của, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung. Chỉ tính từ đầu năm 1951, khi bộ đội ta mở chiến dịch Trung du, cho tới chiến dịch Điện Biên Phủ, riêng Thanh Hóa đã huy động được hàng chục vạn tấn lương thực, thực phẩm, đáp ứng tới 70% nhu cầu vật chất cần thiết cho các chiến dịch. Riêng về lực lượng, Thanh Hóa đã động viên được 56.792 thanh niên tòng quân, bổ sung cho các chiến trường. Chiến dịch Điện Biên Phủ đánh dấu sự đóng góp lớn nhất của tỉnh hậu phương Thanh Hóa. Số dân công huy động cả ngắn ngày và dài ngày lên tới 178.924/262.000 người của toàn chiến dịch (chiếm gần 70%); số lương thực đóng góp là 9.000/25.200 tấn (gần 40%); xe đạp thồ gần 11.000 chiếc; 1.126 chiếc thuyền; 1.300 con bò; 2.000 con lợn; 150 tấn đậu, 450 tấn cá khô; 250.000 quả trứng; 20.000 chai nước mắm; hàng trăm tấn rau, củ quả...

       Bên cạnh sự đóng góp to lớn đó, Thanh Hóa còn là nơi thu nhận và cứu chữa cho hàng nghìn thương bệnh binh của chiến dịch; là nơi tập trung phần lớn số tù binh Pháp bị bắt tại Điện Biên Phủ.

      Vừa là hậu phương vừa là tiền tuyến

      Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tuy là một tỉnh làm nhiệm vụ chính là hậu phương, nhưng quân dân Thanh Hóa còn phải tổ chức chiến đấu chống lại các cuộc tiến công của địch từ hướng Bắc, hướng Tây và hướng Đông, trừ hướng Nam giáp tỉnh Nghệ An.

      Sau khi đối phó với cuộc chiến đấu đồng loạt của quân dân các tỉnh, thành phố từ Đà Nẵng trở ra, từng bước chiếm đóng các địa bàn đô thị, nông thôn, từ tháng 3-1947, thực dân Pháp đã tổ chức tiến hành đánh vào Thanh Hóa từ hướng biển (phía Đông) và miền núi (phía Tây). Các huyện Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Tĩnh Gia, Thiệu Hóa bị địch xâm nhập và ném bom bắn phá. Thị xã Thanh Hóa, hai bên bờ sông Mã, đập Bái Thượng...cũng phải hứng chịu các cuộc oanh tạc của máy bay Pháp. Các huyện Hồi Xuân, Bá Thước, Lang Chánh cũng bị địch xuất phát từ đất Lào đánh sang âm mưu chiếm đóng toàn bộ miền Tây Thanh Hóa, đồng thời uy hiếp vùng đồng bằng của tỉnh, lấy đó làm cơ sở để đánh ra các tỉnh phía Bắc Thanh Hóa thuộc Liên khu 3, nhằm cắt đứt đường liên lạc, vận chuyển từ Liên khu 4, cụ thể là từ Thanh Hóa ra phía Tây Nam Hòa Bình, ra các tỉnh Tây Bắc, Việt Bắc cũng như giữa Thanh Hóa với các tỉnh Thượng Lào.

     Nhận thức rõ vị trí quan trọng cùng những thuận lợi và khó khăn của mình, Đảng bộ và chính quyền Thanh Hóa đã tổ chức các đội vũ trang tuyên truyền phối hợp cùng các đơn vị tập trung của tỉnh vừa chiến đấu ngăn chặn địch, vừa gây dựng, phát triển cơ sở kháng chiến, bảo vệ địa bàn. Ủy ban kháng chiến, hành chính tỉnh đã chủ động cử bộ đội chủ lực của tỉnh phối hợp cùng với các đơn vị thuộc Liên khu 4, Liên khu 3, Liên khu 10 đánh địch ở Sầm Nưa (Lào).

     Cũng từ vị trí chiến lược của miền Tây Thanh Hóa đối với sự an toàn của cả vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, sự ổn định và phát triển của hậu phương Thanh hóa cũng như hỗ trợ hiệu quả cho cách mạng Lào, Chính phủ đã quyết định thành lập Ủy ban hành chính đặc biệt miền Thượng du Thanh Hóa. Đồng thời, Ủy ban lãnh đạo dân quân Thượng du cũng được thành lập tại huyện Ngọc Lặc. Các huyện miền Tây Thanh Hóa đã xây dựng được hai đại đội du kích tập trung, lấy tên hai vị chỉ huy nổi tiếng của địa phương là Cầm Bá Thước và Hà Văn Mao. Hai đại đội này đã phối hợp hiệu quả với các đơn vị của Trung đoàn 77, hoạt động tác chiến, gây cơ sở trên địa bàn các huyện Bá Thước, Quan Hóa, Lang Chánh, Thường Xuân, góp phần cổ vũ và làm nòng cốt cho nhân dân các dân tộc miền núi Thanh Hóa tham gia đánh địch, chống lại bọn phản động tay sai, bảo vệ quê hương trong những năm đầu kháng chiến.

      Tầm quan trọng của miền Tây Thanh Hóa trong những năm tháng kháng chiến được đúc kết thành 6 chữ "Thượng du thắng - Thanh Hóa thắng". Nhận thức rõ vai trò của vùng đất này, lãnh đạo tỉnh cũng như lãnh đạo Liên khu 4 đã tập trung cán bộ, lực lượng và chỉ đạo sát sao các hoạt động kháng chiến tại đây. Bộ tư lệnh Liên khu 4 quyết định thành lập Ban chỉ huy mặt trận miền Tây Thanh Hóa, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ tư lệnh Liên khu 4 và Ủy ban hành chính tỉnh Thanh Hóa. Tiếp sau đó, từ đầu năm 1950, Bộ tư lệnh Liên khu 4 quyết định thành lập và trực tiếp chỉ đạo Ban chỉ huy Mặt trận Thanh Hóa. Địa bàn Thanh Hóa được chia thành 5 khu vực tác chiến, các lực lượng vũ trang tỉnh luôn sẵn sàng chiến đấu và đã tổ chức phối hợp chiến đấu với các đơn vị của Liên khu 3 đánh địch xâm nhập từ phía Bắc và từ phía biển vào, từ phía Tây sang, góp phần phá vỡ phòng tuyến Sông Mã của địch, tiêu diệt, bức rút, bức hàng nhiều đồn bốt, giải phóng hoàn toàn miền Tây Thanh Hóa.

      Tháng 10 năm 1953, thực dân Pháp mở cuộc hành binh Hải Âu (Mouette), phối hợp với cuộc hành quân nghi binh mang tên "Chim Bồ Nông" đánh vào Tây Nam Ninh Bình với lực lượng nhiều tiểu đoàn, nhằm đánh chiếm căn cứ hậu phương Ninh Bình,Thanh Hóa. Đây là cuộc tiến công quy mô lớn của quân Pháp vào Thanh Hóa trong những năm chiến tranh. Hơn 500 quân Pháp đổ bộ vào Hải Yến, Khoa Trường, Tĩnh Gia ngày 16 - 10; các đơn vị bộ binh, cơ giới khác tiến đánh Phúc Dương, Hoạt Giang (Hà Trung). Ở ngoài biển Thanh Hóa, bộ chỉ huy Pháp điều tàu sân bay Arômăngxơ đến hỗ trợ cho lực lượng trên bờ, các đơn vị biệt kích đồng thời thực hiện đòn nghi binh phối hợp với các binh đoàn cơ động tiến công Rịa, Nho Quan.

      Chấp hành chỉ đạo ngày 21-10-1953 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đối phó với cuộc tiến công của quân Pháp ra Tây Nam Ninh Bình và Đông Bắc Thanh Hóa, các đơn vị chủ lực thuộc Đại đoàn 320 và Đại đoàn 304 đã phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương tổ chức đánh địch, tiêu diệt nhiều tên, làm thất bại cuộc hành binh Hải Âu, bảo vệ được căn cứ hậu phương, đồng thời vẫn tiếp tục triển khai các hoạt động trong Đông Xuân 1953-1954 như dự kiến.

      Nhìn chung, trong những năm tháng kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ, quân dân Thanh Hóa đã hoàn thành xuất sắc vai trò của một hậu phương chiến lược trực tiếp, vừa chiến đấu vừa phục vụ chiến đấu, chi viện cho các mặt trận, các chiến trường Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, cho cuộc kháng chiến của nhân dân Lào. Trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng với tinh thần tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, quân và dân Thanh Hóa đã phát huy lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm, cưu mang, đùm bọc hàng trăm nghìn người dân tản cư từ các tỉnh phía Bắc vào, đóng góp hết sức mình về vật chất và tinh thần cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, góp phần rất to lớn vào thắng lợi chung.

      Vị trí, vai trò và đóng góp của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xứng đáng với sự khen ngợi, đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó"./.

Các tin khác
Số lượt truy cập
Hôm nay:
1819
Hôm qua:
1933
Tuần này:
3752
Tháng này:
40333
Tất cả:
4.338.870