THI ĐUA "CHỦ ĐỘNG, ĐỒNG BỘ, ĐỘT PHÁ, KỶ CƯƠNG, CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ" XÂY DỰNG TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH THANH HOÁ ĐẠT CHUẨN TRONG NHÓM CÁC TRƯỜNG DẪN ĐẦU CẢ NƯỚC                                                                                           MỪNG ĐẤT NƯỚC ĐỔI MỚI, MỪNG ĐẢNG QUANG VINH, MỪNG XUÂN ẤT TỴ NĂM 2025!
             
NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG 95 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (03/2/1930 - 03/2/2025)!

Chủ trương chỉ đạo chiến lược của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

Đăng lúc: 07:11:30 09/05/2022 (GMT+7)14209 lượt xem

 ThS. Lê Na
Khoa Xây dựng Đảng
  
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chiến thắng Điện Biên Phủ là một kỳ tích vẻ vang của thời đại Hồ Chí Minh, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi cục diện chiến tranh, trực tiếp dẫn đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Mở ra giai đoạn cách mạng mới, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau gần 8 năm tiến hành chiến tranh ở Đông Dương nhưng không đạt được kết quả như mong muốn, quân Pháp ngày càng sa vào thế bị động, phòng ngự và bất lợitrên chiến trường, mất hàng chục vạn sĩ quan và binh lính. Trước những thất bại liên tiếp ở Đông Dương và phong trào đấu tranh ngày càng mạnh của nhân dân Pháp đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược, vấn đề cấp thiết đặt ra cho thực dân Pháp là: Hoặc phải thắng nhanh, hoặc phải chịu thua, hoặc đề nghị Mỹ nhảy vào thay thế. Chính vì vậy Pháp muốn đánh một trận cuối cùng để đè bẹp quân chủ lực của ta để giành một chiến thắng trong danh dự. Ngày 7/5/1953, chính phủ Pháp điều tướng Henri Navarre sang Đông Dương làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp thay cho tướng Salăng. Navarre là một trong những viên tướng giỏi nhất của Pháp lúc bấy giờ, nhiều kinh nghiệm chiến trường, đầy tự tin và quyết đoán cả trong quân sự lẫn chính trị, đã từng tham gia chiến tranh thế giới lần I và II với nhiều thành tích. Trước khi được điều sang Đông Dương, Navarre đang giữ chức Tổng Tham mưu trưởng lục quân Pháp của khối Bắc Đại Tây Dương đóng tại Trung Âu, báo chí nước ngoài từng ca ngợi Navarre như một danh tướng có thể "thay đổi vận mệnh Đông Dương" sau hàng loạt thất bại trước đó. Khi sang Đông Dương, dựa vào kinh nghiệm trận mạc “dạn dày”, Navarre vạch ra kế hoạch tác chiến mang tên mình. Điểm mấu chốt của “kế hoạch Navarre” là trong 2 năm 1953 - 1954, sẽ thực hiện phòng ngự chiến lược ở chiến trường miền Bắc, tiến công chiến lược ở miền Nam, đặc biệt là tấn công vào vùng tự do Liên khu V nhằm giành lại sự chủ động chiến lược làm xoay chuyển tình thế trên chiến trường Đông Dương, thực hiện đòn tiến công mang tính quyết định khi có điều kiện. Thực hiện kế hoạch này Pháp hy vọngtrong vòng 18 tháng sẽ giành lấy một thắng lợi quyết định để “kết thúc chiến tranh trong danh dự”, từ đó buộc Đảng ta phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho Pháp.
Được sự đầu tư, chi viện, giúp sức tối đa của M, Navarređã tập trung mọi cố gắng để chọn vùng chiếm đóng và quyết định xây dựng Điện Biên Phủ thành một Tập đoàn cứ điểm quân sự phòng thủ lớn mạnh chưa từng có ở Đông Dương nhằm thu hút quân chủ lực của ta đến giao chiến. Ngay từ cuối năm 1953 đầu năm 1954, khi bắt đầu triển khai Kế hoạch Navarre, phát hiện sự di chuyển của quân ta lên hướng Tây Bắc, tướng Henri Navarre đã quyết định tăng cường lực lượng và xây dựng Điện Biện Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh. Theo đánh giá giới quân sự Pháp và Mỹ thì Điện Biên Phủ ở vị trí chiến lược quan trọng chẳng những đối với chiến trường Đông Dương mà còn đối với miền Đông Nam Á. Nó như “cái bàn xoay” có thể xoay đi bốn phía Việt Nam, Lào, Miến Điện, Trung Quốc; đồng thời là “cái chìa khóa” để bảo vệ Thượng Lào, từ đó đánh chiếm lại các vùng đã mất. Bởi vậy, thực dân Pháp đã điều động và bố trí lực lượng ở Điện Biên Phủ lúc cao nhất lên đến 16.200 quân cùng nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh 49 cứ điểm với 3 phân khu: Phân khu Bắc, Phân khu Nam và Phân khu Trung tâm.Mỗi một phân khu gồm nhiều trung tâm đề kháng kiên cố có thể hỗ trợ lẫn nhau, các cứ điểm đều có lực lượng cơ động, hỏa lực riêng, hệ thống công sự vững chắc, xung quanh là hào giao thông và hàng rào dây kẽm gai có khả năng phòng ngự rất mạnh. Toàn bộ Tập đoàn cứ điểm đều có hệ thống công sự nằm chìm dưới mặt đất chịu được đạn pháo 105mm với một hệ thống hàng rào, bãi dây thép gai, bãi mìn dày đặc…
Có thể nói, kế hoạch quân sự Navarre là một kế hoạch dựa trên sự nỗ lực cao nhất của Pháp và sự viện trợ lớn nhất của Mĩ với một số quân đông và mạnh nhất và số lượng phương tiện chiến tranh nhiều nhất. Đây là kế hoạch quyết tâm: "chuyển bại thành thắng" của Pháp - Mĩ. Đặc biệt, trước khi trận đánh diễn ra, đích thân Phó Tổng thống Mĩ Richard Nixon đã lên thị sát việc xây Tập đoàn cứ điểm để "đảm bảo rằng sự đầu tư của Mĩ ở Đông Dương được sử dụng hiệu quả". Với tham vọng xây dựng Điện Biên Phủ thành một “pháo đài bất khả xâm phạm”, một “cối xay thịt khổng lồ”, một “con nhím của núi rừng Tây Bắc” một “cái bẫy hiểm ác” sẵn sàng nghiền nát chủ lực của ta. Mĩ và Pháp rất tự tin cho rằng với vị thế đắc địa của Điện Biên Phủ, Việt Nam không thể nào giành thắng lợi vì 3 lý do:
Thứ nhất, về hậu cần, trong khi quân Pháp có máy bay vận tải để tiếp tế Điện Biên rất nhanh chóng, kịp thời trong khi quân ta chỉ có thể dùng sức người là chính và nếu phải đánh lâu dài thì quân ta sẽ rất khó khăn về mặt hậu cần do chiến trường ở rất xa các vùng hậu phương lớn và quá trình vận chuyển lương thực lên Điện Biên Phủ vô cùng khó khăn vì địa hình đèo núi rất dốc và vô cùng hiểm trở.
Thứ hai, Pháp tin rằng chiến trường Điện Biên Phủ là nơi sẽ thu hút được quân chủ lực của ta đến giao chiến vì Điện Biên Phủ là vùng rừng núi, hợp với sở trường tác chiến của quân ta nhưng nếu đánh nhanh thì quân ta thiếu vũ khí tối tân, hiện đại và không thể nào đưa pháo lớn lên Điện Biên Phủ bằng sức lao động thủ công do địa hình rất dốc và hiểm trở.
Thứ ba, Pháp cho rằng bộ đội ta không thể chịu nổi thời tiết, khí hậu khắc nghiệt ở Tây Bắc vì chủ yếu là người miền xuôi nên sẽ đau ốm, mệt mỏi không thể duy trì được sức chiến đấu liên tục cả ngày lẫn đêm trong thời gian dài. Vào lúc này mùa mưa, các dịch bệnh dễ xảy ra lúc đó không đánh cũng thua và Pháp cho rằng, bộ đội ta không thể nào tiếp cận được các trung tâm đề kháng của Pháp mà không bị thương vong nên thất bại là điều không tránh khỏi.
Về phía ta, với tầm nhìn chiến lược, Trung ương Đảng đã đề ra một loạt chủ trương chỉ đạo chiến lượcnhằm chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược này và phân tích: Kế hoạch quân sự Navarre chỉ là sản phẩm của thế thua, thế thất bại nên chứa đựng đầy mâu thuẫn và những hạn chế không thể khắc phục được, phương châm của Đảng là "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu", phân tán và tiêu diệt sinh lực địch để mở rộng vùng tự do. Bộ chính trị phê chuẩn phương án chuyển từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang"đánh chắc, tiến chắc” dùng quân chủ lực đánh vào nơi sơ hở của địch là Tây Bắc, Thượng Lào và Tây Nguyên buộc chúng phải phân tán lực lượng để đối phó với ta. Theo đó, quân và dân ta trên khắp các địa bàn, nhất là ở đồng bằng Bắc bộ, chủ động đẩy mạnh các hoạt động tác chiến làm cho địch không thể thực hiện được kế hoạch đã vạch ra, mà còn lâm vào thế bị động đối phó và buộc phải hành động theo ý định của ta, chúng đã để mất đi khả năng tăng cường lực lượng cho chiến trường chính - Điện Biên Phủ.Hơn nữa, từ sau năm 1950, ta đã nối thông biên giới với Trung Quốc và nhận được sự viện trợ quân sự to lớn của Trung Quốc và Liên Xô nên đã trưởng thành, lớn mạnh rất nhiều, các sư đoàn, đại đoàn, bộ binh và các trung đoàn pháo binh, công binh của ta được rèn luyện qua thực tiễn đấu tranh nên dày dạn kinh nghiệm đủ sức đối đầu với Pháp.
Như vậy, với chủ trương chỉ đạo chiến lược “đánh chắc, tiến chắc”, xây dựng trận địa chiến hào từ xa tiến vào gần, ta thực hiện “vây lấn” Tập đoàn cứ điểm của địch từ ngoài vào trong, lần lượt tiêu diệt từng cụm cứ điểm, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn quân địch. Cách đánh này đã phát huy lợi thế của trận địa tiến công, tổ chức hiệp đồng chặt chẽ các lực lượng với quy mô lớn, tiến hành “trói địch lại”, đánh “bóc vỏ”, quân tađã hạn chế sở trường vốn là những thế mạnh của quân Pháp là pháo binh, máy bay và chiến hào đồng thời khoét sâu vào những mặt yếu cơ bản của chúng là ý chí chiến đấu và tiếp tế hậu cần, vốn là nhược điểm chí mạng của quân Pháp ở Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Ngoài ra, Trung ương Đảng còn nhận định, trận Điện Biên Phủ là cơ hội đánh tiêu diệt lớn để từ đó có thể chấm dứt chiến tranh nên Trung ương Đảng hạ quyết tâm phải "Tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh trước khi đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương”. Để đối phó với âm mưu, chiến lược của Pháp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phân tích hai nhược điểm lớn của "con nhím Điện Biên Phủ”.
Một là, tính cứng nhắc và thụ động của hệ thống phòng ngự bằng Tập đoàn cứ điểm mà quân địch đã lựa chọn:Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là một kết cấu chặt chẽ của nhiều cứ điểm nhưng trong thực tế vẫn là những cứ điểm tách rời. Quân địch ở đó tuy đông nhưng khi một cứ điểm bị tấn công thì lực lượng đối phó chủ yếu vẫn là lực lượng của chính cứ điểm đó chứ không phải là các cứ điểm khác. Nhược điểm này rất thuận lợi cho quân ta tập trung sức mạnh tiêu diệt và bẻ rời từng cứ điểm để làm suy yếu địch.
Hai, tính cô lập của "con nhím Điện Biên Phủ”:Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn nằm chơ vơ giữa mênh mông núi rừng Tây Bắc lại rất xa những căn cứ hậu phương nhất là những căn cứ không quân lớn của địch, mọi việc tăng viện và tiếp tế đều phải dựa vào đường không. Nếu đường không bị cô lập hay cắt đứt nó sẽ nhanh chóng mất sức chiến đấu và việc khống chế sân bay Mường Thanh không còn là điều khó khăn với bộ đội ta lúc này.
Ngoài ra, Đảng còn dành 2 bất ngờ để “tặng” quân Pháp khi nổ súng khai hỏa. Thứ nhất, đó là lực lượng pháo binh và pháo cao xạ. Sự xuất hiện của pháo mặt đất hạng nặng (105 mm) và pháo cao xạ đã làm mọi tính toán của Pháp đảo lộn, quân Pháp không hiểu bằng cách nào mà quân dân Việt Nam có thể đưa được pháo lớn lên Điện Biên Phủ với địa hình dốc đèo, hiểm trở như vậy, trong khi Pháp có tới 2 máy bay chịu trách nhiệm phát hiện trận địa pháo của ta. Ngay cả trung tá Pirot, chịu trách nhiệm về pháo binh tại Điện Biên Phủ rất tự tin hứa với Navarre rằng: “Sẽ tiêu diệt ngay pháo của Việt Minh sau 2 phút xuất hiện.  Thứ hai, cầu hàng không - con đường tiếp tế duy nhất cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ sẽ bị cắt đứt vì pháo mặt đất của ta từ trên núi bắn phá sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm khiến máy bay Pháp không lên xuống được. Khi quân Pháp quyết định thả dù thì sẽ bị pháo cao xạ bắn quyết liệt khiến hoạt động này sẽ không thu được nhiều kết quả. Thực tế cho thấy bị cắt đứt về hậu cần là một nguyên nhân khiến quân Pháp thua trận tại Điện Biên Phủ.
Bên cạnh đó, việc giữ bí mật ý đồ tác chiến và nghi binh chiến lược, làm cho địch nhận định có nhiều sai lầm là đỉnh cao nghệ thuật trong “điều binh khiển tướng” của Đảng. Trước khi chiến dịch mở màn, cùng với việc động viên bộ đội kéo pháo ra, tiếp tục bí mật chuẩn bị lại mọi mặt, ta đã rút Đại đoàn 308 tiến công sang hướng Thượng Lào, nhằm cô lập địch ở Điên Biên Phủ, vừa giúp nước bạn Lào mở rộng vùng giải phóng, vừađể không cho địch đánh vào sau lưng ta. Với kế hoạch này, ta đã đạt được cả hai mục đích vừa nghi binh thu hút sự chú ý của chúng và vừa bảo đảm cho bộ đội ở Điện Biên Phủ rút ra khu tập kết an toàn.
Những sự kiện nổi bật trên đây cho thấy, chủ trương chỉ đạo chiến lược của Đảng là hết sức toàn diện, sâu sát, đúng đắn và sáng tạo trong cuộc chiến đấu tổng lực với kẻ thù. Nhờ vậy, Đảng đã khơi dậy và nhân lên gấp bội sức mạnh của lòng quả cảm và ý thức tự giải phóng của dân tộc ta, tạo nên sức mạnh vô địch tại Điện Biên Phủ, sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định đưa đến thắng lợi Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ. Thực tế đã chứng minh, việc xác định đúng phương châm tác chiến chuyển từ "Đánh nhanh, thắng nhanh" sang "Đánh chắc, tiến chắc", quân ta đã thực hiện đánh từng cứ điểm của địch từ ngoài vào trong. Địch chọn vị trí dưới lòng chảo, ta chọn vị trí trên cao xung quanh lòng chảo, từ đây từng cứ điểm của địch đều trong tầm kiểm soát của quân ta. Bộ chỉ huy chiến dịch đã biết tận dụng những nhược điểm của địch để chuẩn bị những điều kiện cho quân ta giành chiến thắng. Từng khẩu pháo được che chắn, ngụy trang kỹ lưỡng, đặt đúng hướng vào những mục tiêu đã định ở từng vị trí đóng quân của các đơn vị bộ binh nên có thể nhắm thẳng vào từng ngóc ngách, cứ điểm của địch.
Với tinh thần cả nước cho Điện Biên Phủ chiến thắng. Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tấn công đồi Him Lam mở màn cho chiến thắng lịch sử. Sau 56 ngày đêm với 3 đợt tiến công, chiều ngày 7/5/1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã bị tiêu diệt.Chiến thắng Điện Biên Phủ và các chiến dịch trong Đông- Xuân 1953-1954 là một trong những đỉnh cao của chiến công giữ nước trong thời đại Hồ Chí Minh, đó là “ mộtBạch Đằng, một Chi Lăng, một Đống Đa của thế kỷ XX” đã giáng một đòn quyết định vào dã tâm xâm lược của kẻ thù, đánh bại kế hoạch quân sự Navarre, làm sụp đổ niềm hy vọng của các giới chính trị và quân sự ở Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh. Ngày 21/7/1954, Pháp buộc phải ký hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi, tạo cơ sở quan trọng cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng lợi ở Hội nghị Giơnevơ.
Như vậy, thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ đã cho thấy rõ nét chủ trương chỉ đạo chiến lược của Đảngcả về tư tưởng chiến lược tiến công, tư tưởng lấy nhỏ thắng lớn, thô sơ thắng hiện đại, nghệ thuật tổ chức, chỉ huy và phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, nghệ thuật tổ chức chuẩn bị và điều hành chiến dịch... Bằng cách đánh sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, mặc dù không có máy bay, xe tăng, pháo lớn, lại xa căn cứ hậu phương, nhưng chúng ta vẫn giành chiến thắng oanh liệt.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 để lại cho cách mạng Việt Nam những bài học - kinh nghiệm rất quý báu về giữ vững và tăng cường phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trên cơ sở chủ trương, đường lối đúng đắn, kịp thời nắm bắt thời cơ, chớp thời cơ, chỉ đạo chiến lược nhạy bén, sắc sảo nhằm tập trung sức mạnh cao độ cả nước để giành thắng lợi quyết định; về thực hiện tốt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, biết dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; phát huy thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, không ngừng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng lớn mạnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực để sẵn sàng thực hiện tốt nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, những trận quyết chiến; không ngừng chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công - nông làm nền tảng, tích cực đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xây dựng tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đều hướng đến mục tiêu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội. Những bài học - kinh nghiệm ấy vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục được Đảng, Nhà nước ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.
------------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Điện Biên Phủ đỉnh cao nghệ thuật chiến dịch Việt Nam” - Bộ Quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, 2004, 179 trang.
2. “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ toàn thư” - Phan Ngọc Liên tuyển chọn, Nxb. Từ điển Bách Khoa, 2004.
3. “Điện Biên Phủ mốc vàng thời đại” - Nxb Quân đội nhân dân, 2004, 497 trang.
 
Số lượt truy cập
Hôm nay:
60
Hôm qua:
2301
Tuần này:
4682
Tháng này:
12603
Tất cả:
5.105.112