NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2024)

Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Chính trị tỉnh Thanh Hoá trong bối cảnh hiện nay

Đăng lúc: 08:28:40 17/12/2021 (GMT+7)612 lượt xem

 ThS. Nguyễn Trần Bách Diệp
Phòng Tổ chức, hành chính, thông tin, tư liệu
 
Cương lĩnh Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đưa ra những quan điểm, định hướng lớn về phát triển GD-ĐT, chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội”. Quan điểm chỉ đạo này của Đảng cho thấy vai trò, tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học (NCKH) đối với sự phát triển chung của các nhà trường.
Đối với các trường chính trị tỉnh trong hệ thống Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, công tác NCKH được xác định là nhiệm vụ có ý nghĩa thiết thực, hỗ trợ công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên (GV), chất lượng đào tạo, bồi dưỡng (ĐT-BD), đồng thời cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương.
Trong những năm qua, cùng với nhiệm vụ ĐT-BD cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở, hoạt động NCKH của Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hoạt động NCKH của Nhà trường vẫn chưa đi vào chiều sâu, nhiều hoạt động NCKH chưa được GV tham gia toàn diện. Do tập trung đầu tư nhiều đến công tác giảng dạy nên GV còn chưa thực sự tự giác tham gia, dẫn đến việc chủ động trong việc tìm kiếm đề tài chưa cao. Bên cạnh đó, chất lượng hoạt động NCKH chưa thực sự hiệu quả; việc áp dụng các vấn đề nghiên cứu trong giảng dạy còn phiến diện, còn nhiều lúng túng. Thời gian qua, các đề tài được tỉnh nghiệm thu chưa được ứng dụng một cách phổ biến vào thực tế; việc quản lý hoạt động NCKH còn nhiều bất cập. Thực tế cho thấy, việc cho ra đời các sản phẩm khoa học đòi hỏi rất nhiều công sức và trí tuệ nhưng giá trị về mặt kinh tế mà GV nhận được chưa tương xứng, không bằng giá trị sức lao động của giảng dạy. Bên cạnh đó, nhà trường chưa có giải pháp khích lệ, bồi dưỡng GV trẻ, GV không có năng lực NCKH, dẫn đến nguy cơ cạn kiệt nguồn nhân lực NCKH cho những năm tiếp theo.
Mặc dù Đảng ủy, BGH Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa quản lý hoạt động NCKH của GV bằng những quy định cụ thể gắn với thực hiện nhiệm vụ năm học nhưng công tác quản lý hoạt động NCKH của Nhà trường vẫn còn những hạn chế nhất định, nhất là về tư duy và phương pháp quản lý; cùng với đó là những yêu cầu mới cao hơn, toàn diện hơn đối với công tác NCKH. Do đó, hơn lúc nào hết, trong giai đoạn hiện nay, khi Nhà trường đang dồn tâm lực để hoàn thành các tiêu chí của Quy định số 11-QĐ/TW về trường chính trị chuẩn do Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành, công tác NCKH càng trở nên quan trọng để nâng cao chất lượng đội ngũ GV; nâng cao vị thế của GV, uy tín của nhà trường; nâng cao chất lượng biên soạn tài liệu, tập bài giảng.
Thực tế cho thấy hoạt động NCKH của Trường Chính trị tỉnh bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động NCKH của GV. Theo đó, quản lý hoạt động NCKH của GV Nhà trường có nhiều yếu tố ảnh hưởng, trong đó có các yếu tố tác động từ chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước; từ yêu cầu, nhiệm vụ tăng cường công tác NCKH; từ ý thức, thái độ, năng lực NCKH; từ chế độ, chính sách cho GV; từ năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý… Có thể đánh giá khái quát về thực trạng quản lý hoạt động NCKH của GV Nhà trường ở một số khía cạnh sau đây:
Đối với công tác lập kế hoạch NCKH. Qua theo dõi, đánh giá hằng năm cho thấy công tác này chưa thực sự hiệu quả. Điều này đề ra nhiệm vụ cho Nhà trường cần có những giải pháp phù hợp, hiệu quả hơn nữa, đặc biệt lãnh đạo Nhà trường cần chú trọng, quan tâm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng kế hoạch NCKH cho các Khoa, Phòng và GV đảm bảo yêu cầu. Bên cạnh đó, Nhà trường cần tập trung chỉ đạo việclựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức hoạt động NCKH của GV; đồng thời cần chỉ đạo cụ thể hơn nữa đối với việc thực hiện kế hoạch hoạt động NCKH, thực hiện đề tài các cấp, hướng dẫn học viên viết tiểu luận tốt nghiệp. Ngoài ra, việc dự trù kinh phí để thực hiện các hoạt động NCKH chưa được Nhà trường chỉ đạo thực hiện chặt chẽ nên chưa có dự trù kinh phí hoạt động NCKH riêng cho từng khoa chuyên môn; chưa chú trọng chỉ đạo dự trù thời gian, trang thiết bị, cơ sở vật chất thực hiện các hoạt động NCKH nên trên thực tế có thể dẫn theo sự lúng túng trong cân đối mức chi cho các hoạt động NCKH.
Đối với việc chỉ đạo thực hiện hoạt động NCKH. Việc chỉ đạo nội dung, xác định mục tiêu hoạt động NCKH là 2 nội dung quan trọng của công tác chỉ đạo thực hiện kế hoạch NCKH hàng năm của Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, những hoạt động quản lý có tính chiến lược đối với hoạt động NCKH như: chỉ đạo thực hiện các hoạt động NCKH cho đúng kế hoạch; chỉ đạo việc phối hợp thực hiện hoạt động NCKH giữa các khoa, phòng; chỉ đạo việc ứng dụng hoạt động NCKH trong thực tiễn chưa được lãnh đạo Nhà trường đầu tư tập trung thực hiện hiệu quả.
Đối với việc kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động NCKH. Nhà trường kiểm tra, đánh giá tiến độ thực hiện đề tài các cấp; kiểm tra, đánh giá thực hiện kế hoạch hoạt động NCKH của GV. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, đánh giá kết quả NCKH chưa được thường xuyên, liên tục; chưa thực sự đem lại hiệu quả nên GV chưa đầu tư thực sự vào chất lượng bài viết hoặc đề tài nghiên cứu, không đem lại được nhiều giá trị thiết thực.
Đối với các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động NCKH của GV. Đó các yếu tố:sự quan tâm của lãnh đạo Nhà trường, phòng QLĐT&NCKH; nhận thức của GV về hoạt động NCKH; khả năng nghiên cứu của GV; kinh nghiệm NCKH của GV. Các yếu tố này là những yếu tố chủ quan, tác động tích cực, có ảnh hưởng nhiều nhất đến công tác quản lý hoạt động NCKH của GV.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do hầu hết đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, đặc biệt là trưởng, phó khoa thường thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động NCKH theo kinh nghiệm, thiếu kĩ năng dự báo, lập kế hoạch; do đó, các hoạt động NCKH thường bị động, hiệu quả chưa cao. Ngoài ra, việc chỉ đạo cá nhân GV chủ động trong lập kế hoạch NCKH dẫn đến việc phân công nhiệm vụ NCKH cho GV theo nhóm nghiên cứu còn lúng túng; cùng với đó, việc chưa thật sự sát sao trong công tác quản lý dẫn tới hạn chế khi triển khai kế hoạch NCKH.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng các sản phẩm NCKH chưa cao vì Nhà trường chưa kịp thời ứng dụng, thông tin, trao đổi các sản phẩm NCKHcủa Nhà trường với các địa phương, Học viện, các cơ sở đào tạo cán bộ, các trường chính trị tỉnh khác. Nguyên nhân là do việc quản lý và ứng dụng các sản phẩm NCKH của GV chưa được Nhà trường chú trọng.
Nguyên nhân rất cơ bản lànguồn ngân sách nhà nước chi cho hoạt động NCKH khá eo hẹp, trong khi Nhà trường chưa nghiên cứu thực hiện xã hội hóa trong nghiên cứu các vấn đề ở các địa phương trên địa bàn tỉnh, dẫn đến chưa tạo cho GV sức hút NCKH. Đây là lý do khiến chất lượng NCKH của GV Nhà trường chưa được như mong muốn.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động NCKH của GV, Nhà trường cần khắc phục những tồn tại hạn chế. Đây là yêu cầu cấp thiết đề ra với các cấp quản lý, lãnh đạo Nhà trường. Do đó, để nâng cao chất lượng hoạt động NCKH nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GV, đáp ứng mục tiêu ĐT-BD, Nhà trường cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sao cho phù hợp với thực tế và điều kiện xây dựng, phát triển nhà trường.
Thứ nhất,tổ chức nâng cao nhận thức của GV về tầm quan trọng của NCKH. Đây là biện pháp nhằm giúp GV nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của hoạt động NCKH để có thái độ nghiêm túc, có tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình, tích cực và sự say mê trong NCKH; từ đó sẽ giúp nâng cao chất lượng NCKH của Nhà trường. Theo đó, Nhà trường cần tăng cường tổ chức quán triệt, học tập các văn bản, chỉ thị của cơ quan cấp trên; thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học; giao chỉ tiêu cụ thể nhiệm vụ NCKH cho từng khoa, bộ môn và cá nhân GV phải thực hiện hàng năm; đẩy mạnh công tác kiểm tra, đánh giá về nhận thức và kết quả thực hiện nhiệm vụ NCKH của GV, rút kinh nghiệm để có biện pháp thực hiện tốt hơn; chỉ đạo rà soát, bổ sung quy chế thi đua khen thưởng; xây dựng tiêu chí Giảng viên giỏi cấp trường gắn với sản phẩm NCKH; chỉ đạo thực hiện chi vượt giờ nghĩa vụ NCKH tương đương với giờ giảng dạy để GV có động lực trong NCKH và nhận thức đúng tầm quan trọng của NCKH.
Thứ hai, xây dựng kế hoạch hoạt động NCKH cho GV. Đây là hoạt động quan trọng của chủ thể quản lý nhằm làm cho hoạt động NCKH của GV Nhà trường được thực hiện nề nếp, đúng kế hoạch đã đề ra. Do đó, Nhà trường cần rà soát, khảo sát, đánh giá đúng đặc điểm tình hình của Nhà trường và tình hình NCKH của GV trong từng giai đoạn để xác định những vấn đề nghiên cứu; phổ biến, quán triệt kế hoạch NCKH tổng thể của Nhà trường; chỉ đạo các khoa, tổ bộ môn xây dựng kế hoạch NCKH năm học; xây dựng kế hoạch NCKH của cá nhân GV hiệu quả hơn. Để thực hiện giải pháp này, rất cần năng lực tham mưu, khả năng phán đoán, tổng hợp vấn đề của cán bộ quản lý công tác khoa học thuộc Phòng QLĐT&NCKH; trách nhiệm của lãnh đạo khoa trong việc giúp đỡ GV lập kế hoạch NCKH; ý thức của GV trong việc chủ động xây dựng kế hoạch NCKH cá nhân.
Thứ ba, tổ chức bồi dưỡng năng lực NCKH cho GV. Đây là biện pháp giúp GV có cơ hội tiếp thu kiến thức, tích lũy kinh nghiệm và rèn luyện phương pháp NCKH. Trước hết, Nhà trường cần xây dựng kế hoạch bồi dưỡng nâng cao năng lực NCKH cho GV; tiếp đó là xác định hình thức, phương pháp tổ chức, nội dung bồi dưỡng; chú trọng nội dung bồi dưỡng; thường xuyên duy trì công tác quản lí, kiểm tra hoạt động bồi dưỡng năng lực NCKH cho GV. Để thực hiện được điều này, Nhà trường cần đầu tư xây dựng mối quan hệ với các đơn vị ở Trung ương, địa phương và các trường bạn để tạo điều kiện trao đổi kinh nghiệm trong NCKH; thực hiện chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với những cán bộ, GV có kinh nghiệm trong NCKH để khuyến khích, động viên và phát huy năng lực của những GV này tham gia bồi dưỡng năng lực NCKH cho GV Nhà trường.
Thứ ba, quản lý và ứng dụng các sản phẩm NCKH. Theo đó, Nhà trường cần công bố các sản phẩm NCKH bằng các hình thức đa dạng; ban hành văn bản chỉ đạo việc ứng dụng sản phẩm NCKH vào giảng dạy; tổ chức việc hỗ trợ, hướng dẫn các khoa, phòng thực hiện ứng dụng các sản phẩm NCKH vào thực tiễn công tác chuyên môn giảng dạy của GV; giám sát, đôn đốc, theo dõi việc ứng dụng các sản phẩm NCKH tại các khoa, phòng; sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện việc ứng dụng các sản phẩm NCKH vào thực tiễn để rút kinh nghiệm. Giải pháp này rất cần năng lực tham mưu về mục tiêu, nhiệm vụ, khả năng ứng dụng các sản phẩm NCKH của cán bộ phụ trách NCKH thuộc Phòng QLĐT&NCKH. Ngoài ra, cán bộ, chuyên viên Phòng TCHC, TTTL cần tăng cường bồi dưỡng năng lực nhằm nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng các thành tựu của công nghệ hiện đại để công bố, tuyên truyền ứng dụng các sản phẩm NCKH. Đặc biệt, Nhà trường cần thực hiện việc quy đổi giờ NCKH cho GV theo quy định đối với công tác biên tập Nội san, viết tin, bài cho Website; mỗi khoa, phòng thực hiện biên tập, xuất bản 01 số Nội san trong năm.
Thứ tư, chỉ đạo tăng kinh phí cho hoạt động NCKH. Đây là biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi về vật chất cho GV trong NCKH. Theo đó, Nhà trường cần thường xuyên tổ chức đánh giá kết quả hoạt động NCKH để tổng kết rút kinh nghiệm;; xây dựng kế hoạch đầu tư kinh phí cho hoạt động NCKH; rà soát, lập dự trù tăng kinh phí cho một số hoạt động NCKH; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện tăng kinh phí của các hoạt động NCKH.Điều kiện thực hiện giải pháp; bộ phận Tài vụ tham mưu cho BGH trong việc thực hiện các nội dung về định mức chi dành cho NCKH đảm bảo nhanh, đủ, gọn; sự phối hợp trong công tác quản lý giữa Phòng QLĐT&NCKH và Phòng Tổ chức, hành chính, thông tin, tư liệu đối với việc công bố các sản phẩm NCKH trên Trang thông tin điện tử nhà trường.
Thứ sáu, đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện hoạt động NCKH của GV. Theo đó, Nhà trường cần lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá; xây dựng các tiêu chí kiểm tra; lựa chọn những cán bộ, GV có năng lực NCKH và mời thêm các nhà khoa học có uy tín để thành lập Hội đồng đánh giá; thực hiện quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động NCKH của GV. Để thực hiện giải pháp này, Nhà trường cần xây dựng, ban hành quy định cụ thể đối với công tác kiểm tra, giám sát trong thực hiện hoạt động NCKH; xây dựng quy chế thi đua khen thưởng cụ thể, rõ ràng trong công tác NCKH. Bên cạnh đó, Nhà trường cần đề nghị Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh quy định cụ thể hơn về nội dung hoạt động NCKH đối với từng đối tượng GV, tạo điều kiện để GV các trường chính trị tỉnh có cơ hội tham gia các đề án, đề tài, hội thảo cấp Nhà nước, cấp Bộ để không những được nâng cao năng lực NCKH mà còn giúp mở rộng môi trường NCKH của các nhà trường; định hướng, chỉ đạo cụ thể về kế hoạch NCKH của các trường chính trị tỉnh theo từng giai đoạn; tổ chức các cuộc thi NCKH cấp Học viện để khích lệ GV có năng lực NCKH có điều kiện phát triển; khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân ở các trường chính trị tỉnh có thành tích nổi trội trong công tác NCKH.
Tóm lại: Để các giải pháp được thực hiện có hiệu quả, cần có sự phối kết hợp của mọi GV, mọi bộ phận chức năng liên quan và sự chỉ đạo của BGH Nhà trường. Chúng tôi hy vọng rằng, những đề xuất, gải pháp nêu trên sẽ góp phần thiết thực nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động NCKH của GV Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa trong bối cảnh hiện nay, đáp ứng yêu cầu cầu đổi mới căn bản toàn diện GD&ĐT theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng.
----------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục Mã số: 8140114
 
Số lượt truy cập
Hôm nay:
252
Hôm qua:
2004
Tuần này:
12434
Tháng này:
58808
Tất cả:
4.423.688