HƯỞNG ỨNG NGÀY SÁCH VÀ VĂN HOÁ ĐỌC VIỆT NAM (21/4/2021 - 21/4/2024)

Góp phần tìm hiểu một số quy định mới trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020

Đăng lúc: 07:39:12 25/01/2022 (GMT+7)734 lượt xem

TS. Phạm Thị Hoài Thu
Phó Trưởng khoa Nhà nước và pháp luật

Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đã đóng góp hết sức quan trọng vào những thành công trong công tác bảo vệ môi trường nước ta thời gian qua, như: bảo vệ môi trường trong khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên ứng phó với biến đổi khí hậu; môi trường biển và hải đảo; môi trường nước, đất và không khí; môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; môi trường đô thị, khu dân cư; những quy định về quản lý các loại chất thải… Tuy nhiên, sau 6 năm thực hiện, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập như việc phân công trách nhiệm, phân cấp quản lý nhà nước về  bảo vệ môi trường còn phân tán, chồng chéo, thiếu cơ chế phù hợp để phát huy hiệu quả sự tham gia của toàn xã hội, từng doanh nghiệp và người dân đối với công tác bảo vệ môi trường; bộ máy quản lý nhà nước về môi trường chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, chưa giải quyết hiệu quả các vấn đề liên ngành, liên vùng, xuyên quốc gia; vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn diễn biến phức tạp trong khi chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe; các thủ tục hành chính mang tính cho phép về môi trường vừa thiếu, vừa chồng chéo, trùng lắp, phân tán, thiếu sự liên thông, tích hợp dẫn đến việc cùng một dự án, chủ đầu tư phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính … Bên cạnh đó, còn nhiều vấn đề mới nảy sinh như tác động của biến đổi khí hậu, an ninh môi trường, an ninh sinh thái đòi hỏi pháp luật về bảo vệ môi trường phải được cập nhật, bổ sung với các giải pháp đồng bộ, có tính đột phá. Ngày 17/11/2020, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022. Theo đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có những điểm mới cơ bản sau đây:
Một là, cộng đồng dân cư được quy định là một chủ thể trong công tác bảo vệ môi trường.Thực tế trong thời gian qua, cộng đồng dân cư đã thể hiện vai trò ngày càng quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường như trong việc thu thập, cung cấp thông tin về bảo vệ môi trường; tham gia đánh giá kết quả bảo vệ môi trường của doanh nghiệp… Tuy nhiên, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 chưa quy định cộng đồng dân cư là một chủ thể trong công tác bảo vệ môi trường nên chưa đẩy mạnh, phát huy được vai trò quan trọng của cộng đồng dân cư. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung “cộng đồng dân cư" vào phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng nhằm khẳng định vị trí, vai trò của nhóm đối tượng quan trọng này trong công tác bảo vệ môi trường cũng như việc thực hiện một trong những mục tiêu xuyên suốt của Luật là bảo vệ sức khỏe người dân, đảm bảo người dân được sống trong môi trường trong lành. Theo đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung quy định thiết lập hệ thống trực tuyến tiếp nhận, xử lý, trả lời phản ánh, kiến nghị, tham vấn của tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư về bảo vệ môi trường giúp cộng đồng dân cư có thể tham gia giám sát hoạt động bảo vệ môi trường thông qua công nghệ thông tin, tương tác các ứng dụng thông minh trên điện thoại di động.
Hai là, thay đổi phương thức quản lý môi trường đối với dự án đầu tư theo các tiêu chí môi trường; kiểm soát chặt chẽ dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao.Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy quản lý môi trường thông qua thể chế hóa chính sách phát triển dựa trên quy luật tự nhiên, không đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế; các hoạt động sản xuất, phát triển phải hài hòa với tự nhiên, khuyến khích bảo vệ và phát triển tự nhiên. Luật cũng đặt ra các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường nhằm thực hiện mục tiêu bảo đảm người dân Việt Nam được hưởng chất lượng môi trường ngang bằng với các nước trên thế giới, hài hòa với quy định của quốc tế để góp phần thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo vệ môi trường, ứng phó với những biến đổi khí hậu.
 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 chủ yếu căn cứ vào tiêu chí mức độ tác động xấu đến môi trường và diện tích sử dụng đất để phân loại dự án đầu tư. Khắc phục điểm hạn chế đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định rõ hơn về quy mô, công suất, loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và yếu tố nhạy cảm về môi trường. Vì vậy, các dự án đầu tư được phân thành 04 nhóm gồm nhóm có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao; nhóm có nguy cơ; nhóm ít có nguy cơ; nhóm không có nguy cơ tác động xấu đến môi trường. Từ việc phân loại như vậy, tương ứng với từng đối tượng dự án cụ thể, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về môi trường sẽ áp dụng các cơ chế quản lý phù hợp như chỉ đối tượng có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao mới phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường. Quy định này nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành nhằm giảm thủ tục hành chính cho các nhà đầu tư, theo đó các dự án không thuộc nhóm có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao sẽ không phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí.
Ba là, bổ sung nhiều giải pháp bảo vệ các thành phần môi trường, đặc biệt là môi trường không khí, môi trường nước.Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung nội dung quản lý các chất ô nhiễm có tác động trực tiếp đến sức khỏe con người; quy định rõ trách nhiệm của Bộ Y tế, các Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh trong việc theo dõi, kiểm soát, phòng ngừa các chất ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe con người cũng như đánh giá mối quan hệ giữa sức khỏe môi trường với sức khỏe con người, đặc biệt là mối quan hệ giữa ô nhiễm môi trường với các loại bệnh dịch mới. Thông qua việc bảo vệ các thành phần môi trường để bảo vệ sức khỏe người dân, bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành.
Đối với ô nhiễm không khí và môi trường nước mặt đang là vấn đề bức xúc tại các lưu vực sông và đô thị lớn ở nước ta. Tuy nhiên, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 chưa quy định đầy đủ để quản lý chất lượng môi trường không khí, chất lượng môi trường nước và thực hiện các biện pháp ứng phó khẩn cấp với tình trạng ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định việc lập và thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt, môi trường không khí nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ các thành phần môi trường; đồng thời quy định về tiêu chí và phân loại khu vực ô nhiễm môi trường đất, quy định nội dung về xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất. Đồng thời, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng đã quy định rõ trách nhiệm của UBND cấp tỉnh trong việc xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí; đánh giá chất lượng môi trường không khí và công khai thông tin; cảnh báo cho cộng đồng và triển khai các biện pháp xử lý trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm; tổ chức thực hiện biện pháp khẩn cấp trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Bốn là, thúc đẩy phân loại rác thải tại nguồn; định hướng cách thức quản lý, ứng xử với chất thải. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định việc thu phí rác thải dựa trên khối lượng hoặc thể tích thay cho việc tính bình quân theo hộ gia đình hoặc đầu người như hiện nay. Cơ chế thu phí này sẽ góp phần thúc đẩy người dân phân loại, giảm thiểu rác thải phát sinh tại nguồn do nếu không thực hiện việc này thì chi phí xử lý rác thải phải nộp sẽ cao, thông qua quy định rác thải sinh hoạt phải được phân làm 03 loại: chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế; chất thải thực phẩm; chất thải rắn sinh hoạt khác.  
Căn cứ điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân loại cụ thể chất thải rắn sinh hoạt với thời hạn áp dụng chậm nhất là ngày 31/12/2024. Theo đó, tại các điểm tập kết rác thải, nếu phát hiện việc phân loại không đúng quy định thì đơn vị thu gom, vận chuyển có quyền từ chối thu gom, vận chuyển và thông báo cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, xác định hộ gia đình, cá nhân vi phạm và xử lý nghiêm. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội các cấp vận động cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn. Cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị - xã hội có trách nhiệm giám sát việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt của các hộ gia đình, cá nhân. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ, xử lý hoặc chuyển cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy định.
Ngoài ra, rác thải sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân khu vực nông thôn sau khi phân loại được khuyến khích tận dụng tối đa lượng chất thải thực phẩm làm phân bón hữu cơ, làm thức ăn chăn nuôi để phù hợp với điều kiện nông thôn ở nước ta.
Năm là, cắt giảm mạnh mẽ thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước về môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, xả nước thải vào công trình thủy lợi mà lồng ghép nội dung này trong công tác giải phóng mặt bằng nhằm thống nhất trách nhiệm, thẩm quyền và nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước; đồng thời cắt giảm mạnh mẽ thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Luật cũng đã bổ sung trách nhiệm, thẩm quyền tham gia, phản biện và đồng thuận của cơ quan quản lý công trình thủy lợi ngay từ giai đoạn đánh giá tác động môi trường cho đến khi cấp giấy phép môi trường đối với cơ sở xả nước thải vào công trình thủy lợi nhằm tăng cường công tác phối hợp của các cơ quan.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng đã phân cấp mạnh mẽ cho địa phương thông qua chế định giao Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các bộ có liên quan thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của các Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành trong khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định phân cấp các Bộ, ngành đều có thể thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Đồng thời quy định các Bộ có liên quan phải có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quá trình thực hiện nhằm bảo đảm hiệu quả. Quy định này sẽ bảo đảm quản lý thống nhất tại địa phương, thuận lợi cho công tác kiểm tra, giám sát, cấp phép và phù hợp với xu hướng phân cấp, phân quyền cho địa phương theo quy định của pháp luật.
Sáu là, quy định về kiểm toán môi trường nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý môi trường của doanh nghiệp.Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 bổ sung nội dung về kiểm toán môi trường nhằm điều chỉnh hoạt động kiểm toán trong nội bộ tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ do đơn vị tự thực hiện hoặc thông qua dịch vụ kiểm toán nhằm tăng cường năng lực quản lý môi trường của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nhận biết lỗ hổng trong quản lý môi trường và có giải pháp điều chỉnh hoạt động quản lý môi trường được hiệu quả hơn. Đồng thời, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng đã bổ sung quy định kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán trong lĩnh vực môi trường theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và pháp luật có liên quan.
Bảy là, cụ thể hóa các quy định về ứng phó biến đổi khí hậu, thúc đẩy phát triển thị trường các-bon trong nước.      Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 bổ sung các quy định về thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ô-zôn, trong đó xác định nội dung và trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành liên quan và địa phương về thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; bổ sung quy định về lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào hệ thống chiến lược, quy hoạch, thực hiện cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ô-dôn. Đặc biệt, lần đầu tiên chế định về tổ chức và phát triển thị trường các-bon để thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính trong nước, góp phần thực hiện việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.  
Tám là, tạo lập chính sách phát triển các mô hình tăng trưởng kinh tế bền vững, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, phục hồi và phát triển nguồn vốn tự nhiên.Vốn tự nhiên là các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bao gồm tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng, nguồn lợi thủy sản, khoáng sản, nhiên liệu hóa thạch, các nguồn năng lượng tự nhiên và các dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên. Cũng giống như các dạng vốn vật chất, vốn tài chính và vốn con người, vốn tự nhiên cũng có thể bị suy giảm và suy thoái do quá trình sản xuất và tiêu dùng. Ở nước ta, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển nền kinh tế tuần hoàn, hướng tới phát triển bền vững cũng đã được ban hành nhưng còn thiếu cơ sở pháp lý tạo nền tảng cho thúc đẩy các mô hình kinh tế này. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung một chương về các công cụ kinh tế và nguồn lực cho bảo vệ môi trường năm. Trong đó, bổ sung các chính sách về phát triển ngành công nghiệp môi trường; dịch vụ môi trường; sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường; ưu tiên thực hiện mua sắm xanh đối với dự án, nhiệm vụ sử dụng ngân sách nhà nước; thúc đẩy việc khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự nhiên đặc biệt là thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, bổ sung chính sách về tín dụng xanh, trái phiếu xanh để huy động đa dạng các nguồn lực xã hội cho bảo vệ môi trường.
Như vậy, có thể nói việc ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 trong điều kiện hiện nay là phù hợp với chủ trương và những định hướng lớn của Đảng ta về bảo vệ môi trường nhằm bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của mỗi người dân được sống trong môi trường trong lành, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta; bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững./.
-----------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
2. Báo cáo số 10/BC-BTNMT năm 2020 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về tổng kết 5 năm thi hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.
Số lượt truy cập
Hôm nay:
847
Hôm qua:
2395
Tuần này:
11025
Tháng này:
57399
Tất cả:
4.422.279