NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025)!

Trao đổi một số điểm mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025

Đăng lúc: 10:47:47 15/05/2025 (GMT+7)71 lượt xem

 Nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về việc đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả, đồng thờikhắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 được Quốc hội thông qua ngày 19/02/2025 và có hiệu lực thi hành ngày 01/4/2025.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 có bố cục ngắn gọn, gồm 8 chương, 72 điều (giảm 9 chương, 101 điều so với Luật Ban hành VBQPPL năm 2015). Sau đây chúng tôi xin trao đổi một số điểm mới của Luật Ban hành VBQPPL năm 2025:
1. Giảm chủ thể có thẩm quyền ban hành; thay đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 có 25 hình thức VBQPPL (giảm 01 hình thức) và do 14 chủ thể có thẩm quyền ban hành (giảm 02 chủ thể). (Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 gồm 26 hình thức, do 16 chủ thể có thẩm quyền ban hành). Cụ thể:
Thứ nhất, bỏ thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp xã.
Theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật không còn 02 loại văn bản QPPL của chính quyền cấp xã, gồm: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã. (Theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, thì trong hệ thống VBQPPL có 02 loại văn bản: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã).
Như vậy, Luật Ban hành VBQPPL năm 2025 đã bỏ thẩm quyền ban hành VBQPPL của chính quyền cấp xã là phù hợp với yêu cầu thực tiễn, bởi vì ở cấp xã, người làm công tác xây dựng pháp luật vừa thiếu về số lượng, vừa thiếu kiến thức và kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Hơn nữa, đây là cấp hành chính cơ sở, chỉ tập trung nguồn lực vào công tác triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên; trên thực tế việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp xã không nhiều.  
Thứ hai, thay đổi hình thức Ban hành VBQPPL của Tổng Kiểm toán Nhà nước từ Quyết định sang hình thức Thông tư.
Việc thay đổi 01 hình thức từ Quyết định Tổng Kiểm toán Nhà nước ban hành sang hình thức Thông tư, nhằm bảo đảm tính tương đồng, thống nhất với hình thức VBQPPL do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.
Thứ ba, bổ sung Nghị quyết của Chính phủ văn bản quy phạm pháp luật.
Theo khoản 5 Điều 4 Luật Ban hành BQPPL năm 2025 đã bổ sung 01 hình thức VBQPPL do Chính phủ ban hành là nghị quyết. Điều này xuất phát từ thực tiễn công tác chỉ đạo, điều hành và phản ứng chính sách của Chính phủ, đặc biệt là trong giai đoạn phòng, chống đại dịch Covid-19 và phục hồi kinh tế đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu, bổ sung thẩm quyền của Chính phủ trong việc ban hành một hình thức văn bản riêng (ngoài Nghị định) với quy trình xây dựng, ban hành nhanh gọn, kịp thời để văn bản có hiệu lực sau khi ban hành và xử lý ngay vấn đề thực tiễn phát sinh. (Luật năm 2008 quy định: Chính phủ được ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới 02 hình thức là Nghị định và Nghị quyết. Luật năm 2015 (thay thế Luật 2008): Với chủ trương đơn giản hóa hình thức văn bản quy phạm pháp luật, Luật năm 2015 đã bỏ hình thức Nghị quyết và chỉ giữ lại 01 hình thức văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành là Nghị định).
2. Đổi mới việc xây dựng Chương trình lập pháp của Quốc hội
Luật Ban hành VBQPPL 2025 quy định về Chương trình lập pháp (thay cho tên gọi Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh). Cụ thể, Điều 24 Luật Ban hành VBQPPL 2025 quy định Chương trình lập pháp hằng năm của Quốc hội. Theo đó, căn cứ định hướng lập pháp nhiệm kỳ của Quốc hội hoặc yêu cầu giải quyết vấn đề bất cập, phát sinh từ thực tiễn (nếu có): Ủy ban Thường vụ Quốc hội tự mình đề xuất xây dựng luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chủ tịch nước, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao... gửi tờ trình đề xuất xây dựng luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước ngày 01/8 hằng năm để đưa vào Chương trình lập pháp của năm tiếp theo. Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định Chương trình lập pháp của năm tiếp theo trước ngày 01/10 hằng năm trên cơ sở tờ trình đề xuất của cơ quan trình.
Việc xây dựng Chương trình lập pháp theo Luật Ban hành VBQPPL năm 2025 bảo đảm sự chủ động tối đa cho các cơ quan; cụ thể:
 - Bảo đảm sự chủ động của Quốc hội trong việc xây dựng Chương trình kỳ họp, các cơ quan của Quốc hội chủ động được tiến độ thẩm tra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến và Đại biểu Quốc hội được tiếp cận sớm hồ sơ, chủ động trong việc nghiên cứu, thảo luận, cho ý kiến.
- Bảo đảm sự chủ động cho Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc lập đề nghị, soạn thảo và trình dự án luật, giảm áp lực, chạy theo tiến độ như hiện nay chú trọng vào chất lượng của dự án luật.
(Điều 31 Luật Ban hành VBQPPL 2015 quy định: Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được xây dựng hằng năm trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và yêu cầu quản lý nhà nước trong từng thời kỳ, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh tại kỳ họp thứ nhất của năm trước. Tuy nhiên, Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm được lập trên cơ sở các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh đã được thông qua và việc lập Chương trình còn mang tính hình thức).
3. Đổi mới quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Chương II Luật Ban hành VBQPPL 2025 quy định đổi mới quy trình chính sách theo hướng: Phân định rõ quy trình chính sách và quy trình soạn thảo (Mục 2 và Mục 3 Chương II). Theo đó, chỉ quy định thực hiện quy trình 02 giai đoạn (xây dựng chính sách và soạn thảo), đối với: Luật, Pháp lệnh mới; Luật, Pháp lệnh thay thế các Luật, Pháp lệnh hiện hành; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật có nội dung hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp; Nghị quyết thí điểm của Quốc hội. Còn đối với các luật, pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều và các nghị quyết thì sẽ thực hiện quy trình soạn thảo mà không cần thực hiện quy trình chính sách. Với quy trình này,có thể rút ngắn thời gian ban hành luật có thể rút từ 22 tháng xuống 12 tháng.
(Theo quy định của Luật 2015 tại Mục 1 Chương II, quy trình xây dựng, ban hành Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết phải được thực hiện qua 02 bước với tổng thời gian tối thiểu khoảng 22 tháng: (1) Lập đề nghị xây dựng để đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm (thời gian thực hiện cần tối thiểu 10 tháng). (2) Sau khi được đưa vào Chương trình, các cơ quan sẽ tiến hành soạn thảo, trình dự thảo văn bản để Quốc hội xem xét, thông qua theo tiến độ đã được xác định trong Chương trình (thời gian thực hiện tối thiểu 12 tháng).
4. Bổ sung thêm quy định về giải thích áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp chưa thống nhất
Theo Điều 60 Luật Ban hành VBQPPL 2025, việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, Nghị quyết không được làm thay đổi nội dung quy định được giải thích và được thực hiện trong các trường hợp sau đây: (1) Có cách hiểu khác nhau về quy định của văn bản; (2) Chưa thống nhất việc áp dụng các văn bản. Việc bổ sung thêm quy định về giải thích áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp chưa thống nhất, sẽ giúp các cơ quan, tổ chức có liên quan hiểu và áp dụng đúng quy phạm, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, giúp xử lý nhanh các vấn đề thực tiễn và không tốn kém chi phí, nhân lực để sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật.
(So với khoản 1 Điều 58 Luật Ban hành VBQLPL 2015 thì: Việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh được thực hiện trong trường hợp quy định của Hiến pháp, luật, pháp lệnh có cách hiểu khác nhau trong việc thi hành).
5. Bổ sung quy định về trách nhiệm trực tiếp của người đứng đầu cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Khoản 10 Điều 68 Luật Ban hành VBQPPL năm 2025 đã bổ sung quy định trách nhiệm trực tiếp của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể:
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật;
- Khi để xảy ra tình trạng trình hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền chậm tiến độ, trái pháp luật; để xảy ra tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật của người do mình trực tiếp quản lý, giao nhiệm vụ;
- Chịu trách nhiệm liên đới trong trường hợp đã giao cấp phó của mình trực tiếp phụ trách công tác xây dựng pháp luật;
- Chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức do mình đứng đầu; kết quả thực hiện là căn cứ để đánh giá, xét thi đua khen thưởng, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại.
Bên cạnh đó, cơ quan, tổ chức, người đứng đầu và công chức để xảy ra hành vi vi phạm, tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật tại cơ quan, tổ chức, phạm vi công việc mình được phân công trực tiếp quản lý, phụ trách thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý trách nhiệm hoặc được xem xét loại trừ, miễn hoặc giảm trách nhiệm theo quy định của Đảng và quy định của pháp luật.
Việc bổ sung quy định nêu trên là xuất phát từ việc thể chế hóa Quy định 69-QĐ/TW ngày 06/7/2022 của Ban Chấp hành Trung ươngQuy định về kỷ luật đối với tổ chức đảng, đảng viên vi phạm; Quy định 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền, lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.
(Khoản 8 Điều 7 Luật Ban hành VBQPPL 2015 chỉ quy định về trách nhiệm của người đứng đầu như sau: Người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm định, cơ quan trình, cơ quan thẩm tra và cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải chịu trách nhiệm về việc không hoàn thành nhiệm vụ và tùy theo mức độ mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và quy định khác của pháp luật có liên quan trong trường hợp dự thảo văn bản không bảo đảm về chất lượng, chậm tiến độ, không bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật được phân công thực hiện).
6. Sửa đổi, bổ sung 4 vấn đề trong xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn
Điều 50, Điều 51 Luật Ban hành VBQPPL năm 2025 đã sửa đổi, bổ sung 04 vấn gồm:
- Sửa đổi, bổ sung quy định về các trường hợp xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự rút gọn (Khoản 1, Điều 50).
- Mở rộng phạm vi áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn và đề cao trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng Kiểm toán nhà nước trong việc xây dựng, ban hành Thông tư (Khoản 2, Điều 50).
- Quy định rõ thời điểm đề xuất áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn là trước hoặc trong quá trình xây dựng chính sách và soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật (khoản 1 Điều 51).
- Quy định rõ trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thủ tục rút gọn (khoản 4, 5, 6, 7 Điều 51).
(Luật năm 2015 còn một số hạn chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy trình rút gọn như: Tiêu chí xác định các trường hợp xây dựng, ban hành văn bản theo thủ tục rút gọn quy định còn chưa rõ ràng. Một số trường hợp cần thiết phải ban hành theo thủ tục rút gọn nhưng lại chưa được quy định…).
Có thể khẳng định, Luật Ban hành VBQPPL năm 2025 được xây dựng và ban hành nhằm tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho việc xây dựng và ban hành hệ thống VBQPPL đảm bảo thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả, góp phần tháo gỡ "điểm nghẽn" về thể chế, khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
ThS. Lê Thị Hương
Phó Trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật
 
Số lượt truy cập
Hôm nay:
816
Hôm qua:
1641
Tuần này:
10151
Tháng này:
57991
Tất cả:
5.428.495