NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 114 NĂM NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ 8/3 ( 8/3/1910 – 8/3/2024) VÀ 1984 NĂM KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG!

Phát huy tinh thần Toàn quốc kháng chiến, đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của toàn dân, toàn quân trong tình hình mới

Đăng lúc: 10:25:07 19/12/2017 (GMT+7)1406 lượt xem

 Th.s Nguyễn Thị Phương
Khoa lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Thành viên Câu lạc bộ giảng viên trẻ

          Lịch sử dân tộc Việt Nam là quá trình dựng nước đi đôi với giữ nước, đầy gian khổ, hy sinh, nhưng cũng hết sức vẻ vang. Từ khi có Đảng lãnh đạo, lịch sử hào hùng của dân tộc ta được tiếp nối bằng những mốc son chói lọi với biết bao chiến công hiển hách trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
          Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với “thù trong, giặc ngoài”, nạn đói hoành hành, khó khăn chất chồng, trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhạy bén, sáng suốt, bình tĩnh chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm nguy, từng bước tiến lên. Đứng vững trên nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Đảng đã đề ra sách lược ngoại giao mềm dẻo, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, linh hoạt, phù hợp với từng thời điểm của lịch sử nhằm phân hóa kẻ thù, loại trừ từng bước các thế lực thù địch, phản động, tranh thủ thời gian để củng cố và phát triển lực lượng cách mạng.
          Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới và khi kẻ thù đã buộc chúng ta phải cầm súng bảo vệ Tổ quốc thì nhân dân ta không sợ hy sinh, gian khổ, kiên quyết chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc.Trước yêu cầu bức thiết của lịch sử, ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng tổ chức cuộc họp mở rộng khẩn cấp tại Vạn Phúc, Hà Đông do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì; quyết định chủ trương phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước; đề ra đường lối, chủ trương kháng chiến chống Pháp xâm lược là kháng chiến lâu dài. Ngay đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Toàn văn Lời kêu gọi chỉ có 19 dòng, 199 từ ngắn gọn và súc tích, nhưng đã thể hiện những quan điểm cốt lõi của Người về kháng chiến toàn dân cũng như mệnh lệnh của non sông, thôi thúc cả dân tộc chung sức, đồng lòng vùng dậy quyết chiến, quyết thắng thực dân Pháp xâm lược: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. (1)
          Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng của non sông đất nước, là lời hịch cứu quốc, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào dân tộc, truyền thống anh hùng, bất khuất, kiên cường của nhân dân ta; thôi thúc cả nước sục sôi đứng lên chiến đấu, vì độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc. Đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân cả nước ta với ý chí “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mở đầu là cuộc chiến đấu của quân và dân thủ đô Hà Nội. Cùng với quân dân Thủ đô, quân dân các địa phương trong cả nước đã chiến đấu ngoan cường, giam chân địch. Đường lối kháng chiến của Đảng ta xác định ngay từ đầu là chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Nhờ có sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi sau 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sửlừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền của ba nước: Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia.
          Thành công của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến và cuộc kháng chiến chống Pháp là nhân tố quan trọng, tạo tiền đề cho thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc kéo dài suốt 30 năm của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để lại được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về lãnh đạo cách mạng và chiến tranh nhân dân có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Trong đó, trước hết phải kể đến là đề ra được đường lối đúng đắn và quán triệt thực hiện sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; hai là khơi dậy được tinh thần đoàn kết toàn dân kháng chiến và đoàn kết với nhân dân hai nước Lào, Cam-pu-chia, với nhân dân Pháp và các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới để dấy lên phong trào chống chiến tranh xâm lược phi nghĩa trên thế giới; ba là thực hiện tốt phương châm vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh; bốn là sự chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, phối hợp nhịp nhàng giữa các chiến trường; năm toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo, tín ngưỡng... đều phải là những chiến sĩ kiên cường trên mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, tạo sức mạnh tổng hợp để đưa kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
          Kể từ ngày đó cho đến nay những bài học về phát huy sức mạnh toàn quốc kháng chiến, kháng chiến toàn dân, toàn diện vẫn còn nguyên giá trị. Phát huy tinh thần Toàn quốc kháng chiến, qua hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã vượt lên khó khăn, thử thách, lập nên những chiến công, kỳ tích anh hùng. Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, tạo lập và giữ được môi trường hòa bình, tranh thủ yếu tố thuận lợi của môi trường quốc tế để phát triển. Hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, đóng góp ngày càng tích cực, có trách nhiệm vào đời sống chính trị khu vực và thế giới... Những thành tựu đó tạo tiền đề, là nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
          Trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực, tuy hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng tiếp tục có những diễn biến phức tạp, thay đổi nhanh chóng, tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định rất khó lường. Đối với nước ta, các thế lực thù địch chống phá quyết liệt bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hết sức thâm độc, nguy hiểm. Cùng với đó, trên Biển Đông và biên giới có những diễn biến mới phức tạp, không thể xem thường; bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta vì thế có sự phát triển mới, rất nặng nề, yêu cầu cao.
          Trước tình hình trên, để tiếp tục phát huy tinh thần Toàn quốc kháng chiến, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần nhận thức sâu sắc tình hình mới, yêu cầu, nhiệm vụ mới; phát huy cao độ quyết tâm chính trị, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.Trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải tiếp tục quán triệt, nắm vững và thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, với quan điểm, tư tưởng chỉ đạo là kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó, phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
          Hơn bao giờ hết, phải coi trọng tăng cường xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) đã xác định. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bè phái, “lợi ích nhóm”; đồng thời, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương trong cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đẩy mạnh phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
          V.I. Lênin từng nhấn mạnh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp chính nghĩa, có tính chất toàn dân, toàn diện. Cho nên, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới đòi hỏi chúng ta phải quán triệt sâu sắc, thực hiện tốt quan điểm: “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới” (2). Quân đội nhân dân với vai trò là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cần phải tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; thường xuyên nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, chủ động xử lý kịp thời, hiệu quả mọi tình huống, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược.
          Mặc dù thời gian đã lùi xa hơn bảy mươi năm, nhưng cứ vào dịp này chúng ta không khỏi tự hào bởi giá trị lịch sử và giá trị hiện thực sâu sắc của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã để lại nhiều bài học quý báu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Ôn lại tinh thần Toàn quốc kháng chiến, tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, phát huy nội lực, ý chí quyết chiến, quyết thắng trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Hơn lúc nào hết, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nêu cao lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đến những đỉnh cao thắng lợi mới.
Chú thích:
1.Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2011, tập 4, tr. 480
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2016, tr.78-79.
 
Số lượt truy cập
Hôm nay:
3554
Hôm qua:
2605
Tuần này:
12372
Tháng này:
62529
Tất cả:
4.361.066