NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025)!

Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa không ngừng đổi mới sáng tạo theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Đăng lúc: 07:29:59 09/05/2022 (GMT+7)1224 lượt xem

 TS. Lương Trọng Thành – TUV, Hiệu trưởng
ThS. Lê Nữ Sinh – Giảng viên Khoa LLCS
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã sống trọn cuộc đời vì dân, vì nước. Với “ham muốn tột bậc” là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” (1), Người luôn tìm tòi hướng đi, cách làm mới để đạt mục đích cao cả của mình. Người chính là hiện thân của tinh thần đổi mới sáng tạo thành công.
Thuật ngữ và tư tưởng “đổi mới” được Hồ Chí Minh đề cập từ sớm trong tác phẩm “Đường kách mệnh” năm 1927; sau đó, được Người nhắc lại, làm rõ thêm trong nhiều bài viết, bài nói, nổi bật là “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), “Đời sống mới” (năm 1947), “Dân vận” (năm 1949), đặc biệt là trong bản Di chúc thiêng liêng (năm 1965 - năm 1969), để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc Người đi xa. Từ các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh toát lên một hệ thống luận điểm có giá trị nền tảng và định hướng về đổi mới.
Thứ nhất là về bản chất và vai trò của đổi mới: HồChí Minh chỉrõ, bảnchất của đổi mới là một cuộc cách mạng toàn diện “phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt” (2). “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi” (3). Vai trò của “đổi mới” là tạo động lực cho sự phát triển.
Thứ hai là về nguyên tắc đổi mới: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mớikhông phải là phủ định sạch trơn, mà là sự kế thừa và phát triển; cái cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý, cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải làm.
Thứ ba là về mục đích, phương châm đổi mới: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sứclàm. Việc gì có lợi cho dân phải hết sức tránh” (4). Đổi mới là sự nghiệp lâu dài, phức tạp, gian khổ; phải kiên định, kiên trì, kiên quyết, lựa chọn bước đi thích hợp, không nôn nóng chủ quan mới giành thắng lợi. Hồ Chí Minh căn dặn: thắng đế quốc, phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng, lạc hậu khó hơn nhiều; đấu tranh xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới là công việc cực kỳ to lớn, nặng nề, phức tạp và khó khăn, do vậy phương châm kế hoạch phải chuẩn bị chu đáo, tỷ mỷ, thực hiện chắc chắn.
Thứ tư về lực lượng tiến hành đổi mới: Là dựa vào dân, sức mạnh của đổi mới là sức mạnh của Nhân dân. Người nhấn mạnh: “Công cuộc đổi mới,xây dựng là trách nhiệm của dân” (5). Trong bản Di chúc thiêng liêng Người căn dặn: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn” (6). Cho nên: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” (7). Phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, theo tinh thần cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Thứ năm là vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới: Đảng là linh hồn, là người lãnh đạo là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới. Đảng phải kịp thời nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm thế giới vào điều kiện cụ thể Việt Nam cho phù hợp; bổ sung những vấn đề chưa có trong lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Có thể nói, hệ thống quan điểm lý luận về đổi mới của Hồ Chí Minh được diễn đạt giản dị, dễ hiểu nhưng hàm chứa chiều sâu, tầm cao về trí tuệ thời đại và sự vận dụng linh hoạt lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin; sự kết hợp nhuần nhụy tinh hoa tri thức dân tộc và nhân loại vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua của Việt Nam đã thực sự gắn bó với vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất nước, gắn bó với mỗi người chúng ta và được bạn bè quốc tế quan tâm đến như một lẽ đương nhiên. Gần đây nhất, Chủ đề của Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: "…tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới…". Văn kiện Đại hội đã trình bày hệ thống quan điểm chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, các quan điểm này có quan hệ biện chứng với nhau tạo thành một chỉnh thể phản ánh lý luận về công cuộc đổi mới của nước ta, đó là: quan điểm về kiên định và sáng tạo; quan điểm về chiến lược phát triển tổng thể đất nước;  quan điểm về khơi dậy, phát huy mạnh mẽ các động lực phát triển; quan điểm về phát huy các nguồn lực để phát triển; quan điểm về xây dựng Đảng gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị, với xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược.
Hòa chung không khí đổi mới của đất nước, Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa đã và đang không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế, tổng kết thực tiễn, góp phần xây dựng tỉnh nhà. Là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý lớn của tỉnh, ở khu vực và trong cả nước; bám sát sự chỉ đạo của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự quan tâm của UBND tỉnh, các ban, sở, ngành và các địa phương trong tỉnh; đồng hành với sự nghiệp đổi mới quê hương, đất nước, đội ngũ cán bộ, giảng viên, học viên Trường Chính tri tỉnh Thanh Hóa đã chủ động, sáng tạo thi đua nghiên cứu tốt, tham mưu tốt, quản trị tốt, dạy- học tốt, tư vấn tốt, đổi mới và nâng cao chất lượng toàn diện công tác ĐTBD cán bộ, xây dựng Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa đã và đang trở thành trung tâm chất lượng cao về ĐTBD cán bộ lãnh đạo, quản lý cho các ngành, địa phương trong tỉnh, trung tâm chất lượng cao về NCKH, TKTT. Theo đó, thể chế, cơ chế chính sách về ĐTBD ngày càng được hoàn thiện; quy mô ĐTBD được tăng cường; công tác NCKH, TKTT được quan tâm; đội ngũ cán bộ, giảng viên được chú trọng phát triển; môi trường giáo dục, cơ sở vật chất được đầu tư, quản lý và sử dụng có hiệu quả; vị thế, uy tín và ảnh hưởng của Nhà trường ngày càng được nâng cao, có sức lan tỏa tốt đẹp trong toàn hệ thống và các địa phương trong tỉnh. Để phát triển toàn diện và bền vững phải gắn liền với đổi mới và chỉ có đổi mới sáng tạo mới phát triển toàn diện công tác ĐTBD cán bộ của Nhà trường. Từ thực tiễn đổi mới và phát triển Nhà trường, tổng kết lại 5 bài học kinh nghiệm cơ bản như sau:
 Thứ nhất, yêu cầu mang tính nguyên tắc và then chốt của đổi mới để phát triển là phải giải quyết hài hòa 5 mối quan hệ: i) Đổi mới, ổn định và phát triển; ii) Quy hoạch, đào tạo - bồi dưỡng và sử dụng cán bộ; iii) Giữa quy mô và chất lượng ĐTBD; iv) Giữa đào tạo - bồi dưỡng với nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn; v) Giữa đổi mới Nhà trường với sự phát triển của tỉnh, các địa phương, đơn vị trong tỉnh và các trường trong hệ thống. Theo đó, đổi mới công tác ĐTBD phải bám sát vào định hướng của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, các chủ trương, nghị quyết của Tỉnh ủy, của các địa phương, đơn vị và học tập kinh nghiệm về đổi mới từ các cơ sở đào tạo trong và ngoài hệ thống, từ đó đổi mới đồng bộ và nâng cao chất lượng toàn diện công tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ.
Thứ hai,xuyên suốt và động lực của sự nghiệp đổi mới Nhà trường là phải xác định được sứ mệnh, tầm nhìn, giá trị cốt lõi, đặc biệt là mô hình phát triển. Theo đó, Nhà trường phát triển theo mô hình 5 nhất, 4 trụ cột, 5 định hướng đổi mới. Cụ thể 5 nhất là: i) có thể chế tốt nhất; ii) có quy mô ĐTBD lớn và chất lượng cao nhất; iii) công tác NCKH, TKTT phát triển toàn diện nhất; iv) có đội ngũ đủ phẩm chất, năng lực, uy tín nhất; v) có môi trường giáo dục kỷ cương, thân thiện, giàu tính Đảng nhất. 4 trụ cột: i) nâng cao chất lượng ĐTBD, NCKH là trung tâm; ii) đổi mới quản lý là then chốt; iii) đổi mới phương pháp dạy-học, thi, kiểm tra, đánh giá là đột phá; iv) xây dựng môi trường giàu tính Đảng là là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. 5 định hướng đổi mới là: i) chuyển nhận thức từ người thầy là trung tâm sang người thầy và học viên là trung tâm; ii) chuyển từ học kiến thức là chủ yếu sang phát triển phẩm chất, năng lực; iii) chuyển từ học giáo trình là chủ yếu sang cập nhật kiến thức mới và tổng kết thực tiễn; iv) chuyển từ đánh giá điểm số sang đánh giá quá trình; v) chuyển từ quản lý hành chính sang quản lý phục vụ và kiến tạo.
Thứ ba,sức thuyết phục của đổi mới là trên cơ sở mô hình phát triển đã xác định, cần tập trung nguồn lực để nghiên cứu, quyết tâm xây dựng thành các mô hình, điển hình trong thực tế đổi mới và nâng cao chất lượng công  tác ĐTBD cán bộ, xây dựng đội ngũ, quản trị và phát triển Nhà trường, tiêu biểu như: xây dựng các  tập thể kiểu mẫu và cá nhân gương mẫu; hội thi giảng viên giỏi 3 cấp độ (có giờ dạy giỏi, dạy giỏi và giỏi); mô hình xây dựng hình ảnh, tác phong người cán bộ, giảng viên: nghiêm về giờ giấc, đẹp về trang phục, chuẩn về phát ngôn, đúng mực trong ứng xử, quyết liệt trong đổi mới phương pháp dạy - học theo phương châm: 3 tăng (tăng chủ động, tăng trao đổi, tăng xử lý tình huống), 3 giảm (giảm thụ động, giảng độc thoại, giảm lý thuyết); mô hình học tập 3 không (không vào muộn, ra sớm; không cẩu thả; không làm việc riêng và sử dụng điện thoại trong giờ học), 3 có (có mục tiêu, động lực học tập tích cực; có tác phong, hình ảnh đẹp; có phương pháp rèn luyện khoa học); mô hình giới thiệu sách trong chương trình phát triển văn hóa đọc; mô hình CLB giảng viên trẻ; mô hình bồi dưỡng 3-3-3; mô hình 3 tốt (định hướng tốt, cơ chế tốt, môi trường tốt) trong xây dựng đội ngũ ... chính từ thực tiễn sinh động và hiệu quả thiết thực của các mô hình đã tạo niềm tin, sức lan tỏa, tạo động lực tích cực cho các thế hệ cán bộ, giảng viên, học viên tiếp tục đổi mới và phát triển Nhà trường.
Thứ tư,dẫn dắt sự nghiệp đổi mới là phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ quản lý Nhà trường, trong đó, đối với tự mình đội ngũ cán bộ quản lý phải có khát vọng đổi mới và tinh thần tận hiện với sự nghiệp. Trong điều hành, xử lý công việc đòi hỏi đội ngũ quản lý: i) nguyên tắc nhưng phải mềm dẻo, linh hoạt; ii) nhiệt tình cách mạng nhưng phải khoa học, trí tuệ; iii) dân chủ nhưng phải quyết đoán và chịu trách nhiệm cá nhân; iv) lý luận phải gắn liền với thực tiễn, nói đi đôi với làm; v) nêu gương.Trong quan hệ, ứng xử với CBGV, học viên và Nhân dân đòi hỏi người CB quản lý: i) lắng nghe nhưng không theo đuôi; ii) bao quát mọi người, mọi  việc nhưng phải sâu sát, cụ thể đến từng người, từng việc; iii) công bằng nhưng không được cào bằng; iv) phát huy phải gắn liền với chăm lo; v) phê bình CBGV, học viên phải gắn với tự phê bình.
Thứ năm,chủ thể của sự nghiệp đổi mới là phát huy vị thế là chủ và vai trò làm chủ của CBGV và học viên Nhà trường, trong đó tập trung huy động và phát huy cao nhất trí lực, tâm lực, sức lực đổi mới, nâng cao chất lượng phong trào thi đua 5 tốtNghiên cứu tốt, tham mưu tốt, quản trị tốt, dạy - học tốt, tư vấn tốt nhằm hiện thực hóa 5 mục tiêuLấy hiệu quả phục vụ, thành công của học viên,  nâng cao chất lượng đội ngũ,  nâng cao vị thế Nhà trường, tín nhiệm của xã hội5 giá trị cốt lõi trong học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: Kiên định, kỷ cương, đoàn kết, nêu gương và sáng tạo; 5 chương trình vì học viêni) phát triển tư duy, tầm nhìn; ii) phát triển kỹ năng lãnh đạo quản lý; iii) phát triển văn hóa đọc; iv) xây dựng hình ảnh của học viên; v) xây dựng môi trường giáo dục kỷ cương, thân thiện, giàu tính Đảng.
Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu xây dựng Trường Chính trị chuẩn theo Quy định 11-QĐ/TW ngày 19/5/2021 của Ban Bí thư, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ; Kết luận số 729-KL/TU, ngày 14/02/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Đề án “Xây dựng và phát triển Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đang mở ra cơ hội mới cho cán bộ, giảng viên, học viên toàn trường tiếp tục đổi mới sáng tạo, thi đua “5 tốt” xây dựng Trường Chính trị đạt chuẩn kiểu mẫu trong nhóm dẫn đầu cả nước. Theo đó, thời gian tới, với tinh thần quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả, nâng cao chất lượng phong trào đổi mới sáng tạo, cần tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, khơi dậy trong toàn thể cán bộ, giảng viên, học viên Nhà trường khát vọng đổi mới sáng tạo với tinh thần “4 kiên định” (“Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”)“6 dám” (“dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám nói, dám đột phá sáng tạo và dám đương đầu với khó khăn, thử thách”) như tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Hai là, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ, giảng viên, xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu thực tiễn. Bởi vì đổi mới sáng tạo là việc khó, theo đó, ngoài khát vọng, đòi hỏi phải có trình độ tư duy nhất định mới có thể tạo ra sự thay đổi tích cực về cách thức, quy trình đánh giá mới, sản phẩm mới, nâng cao hiệu quả công tác.
Ba là, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thể chế và xây dựng môi trường tạo động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, để cán bộ, giảng viên sẵn sàng tiên phong làm những điều mới mẻ, khác biệt, chưa có thông lệ, tiền lệ và dám chịu trách nhiệm về sự đổi mới của mình. Cao hơn nữa, dám đối mặt và nhận trách nhiệm với những công việc khó khăn, phức tạp giúp tháo gỡ những nút thắt, khơi thông điểm nghẽn trong thực tiễn tạo thuận lợi cho việc bứt phá, mang lại những giá trị mới về lý luận và thực tiễn; góp phần tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến học viên. Sự đổi mới sáng tạo ở đây không có nghĩa là phủ định sạch trơn những nhận thức, cách làm trước, mà nó một lần nữa khẳng định những giá trị đúng đắn, phát triển lên cao hơn các thành tựu trong quá khứ. Tiêu biểu đó là quá trình chuyển đổi từ dạy học thụ động sang dạy học chủ động, dạy học hướng tới học viên, lấy học viên, người học làm trung tâm; lấy phục vụ là mục tiêu của nhà trường, từ đó, tạo tiền đề nâng cao chất lượng công tác giáo dục và đào tạo. Với phương châm sâu địa bàn, sát lĩnh vực, phát hiện kịp thời, đề xuất giải pháp và tư duy nguồn lực xã hội hoá nghiên cứu tìm hiểu, ưu tiên nghiên cứu phát hiện, khuyến khích nghiên cứu tư vấn, giảng viên của Nhà trường đã vận dụng độc lập, sáng tạo lý luận vào thực tiễn phát triển của tỉnh Thanh Hoá, bảo đảm phù hợp với xu thế vận động chung của cả nước.
Bốn là, phát huy tinh thần tự lực, tự cường của tập thể cán bộ, giảng viên, học viên, xây dựng các quy trình mới đem lại hiệu quả cao; đẩy mạnh việc xây dựng tập thể lớp kiểu mẫu, học viên gương mẫu; phát huy ý tưởng sáng tạo từ các đề xuất, kiến nghị trong khóa luận của học viên và báo cáo chuyên đề của giảng viên; huy động, sử dụng mọi nguồn lực cho đổi mới sáng tạo, tạo bứt phá ấn tượng, phấn đấu đưa Trường Chính trị tỉnh Thanh Hoá trở thành một trong những trường chính trị hàng đầu cả nước. Trong đó cần đặc biệt phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu trong lãnh đạo quản lý và định hướng cho tập thể.
Năm là, thường xuyên, kịp thời sơ kết, tổng kết để đề ra giải pháp đổi mới sáng tạp trong từng lĩnh vực, khởi xướng những mô hình mới; đẩy mạnh tuyên truyền, nhân rộng những mô hình, giải pháp có hiệu quả, đồng thời biểu dương, khen thưởng xứng đáng và ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo, hiệu quả cao.
Tóm lại, đổi mới sáng tạo phải được thực hiện bởi tất cả mọi người, trong mọi việc, ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi cách. T5 nhận thức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới, 5 kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xây dựng, hoạt động của Trường Chính trị tỉnh Thanh Hoá, tham luận đã đề xuất 5 giải pháp cơ bản mang tính khả thi nhằm tiếp tục thúc đẩy tinh thần đổi mới sáng tạo không ngừng, quyết tâm cao, nỗ lực lớn của tập thể cán bộ, giảng viên và học viên Nhà trường, nhằm sớm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Trường Chính trị tỉnh trong nhóm các trường dẫn đầu cả nước, đạt chuẩn mức 1 trước năm 2025, đạt chuẩn mức 2 vào năm 2030./.
--------------------
Chú dẫn:
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG – Sự thật, H.2011, tập 4, tr.187
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr284
(3), (6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.617, 616, 617
(4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.432, 232
Số lượt truy cập
Hôm nay:
141
Hôm qua:
3341
Tuần này:
27568
Tháng này:
43503
Tất cả:
5.414.007